Trang thơ Nguyễn Minh Châu
Thơ - Tuấn TT
Chùm thơ Đông Hương
Thơ - Huy Văn
Thơ Văn 2020
Thơ Văn 2019
Thơ Văn 2018
Thơ
2017 - 2022
Thơ Văn 2023
Sinh nhật
Chuyện về nguồn
Nhớ Cha
Thu chiều… lặng lẽ
Chim kêu… nỗi ḷng
Nh́n Thu … Thương Phận
Huynh đệ chi binh
Quanh thau rượu
Hoàng hôn bên
đồi
Nén hương
mùa kiếp nạn
Tháng Tư… Trang
sử…
Thằng
lính già thương cảm
Thằng lính
già cô độc
Thằng lính
già ngủ mơ
Thằng lính
già hoài niệm
Thằng lính
già nhớ bạn
Phục Sinh
nhiệm màu
Thương tích
Nửa đêm tỉnh
giấc
Vá cờ
Xuân...và Quê tôi
Đă 50 năm
Ai nợ ai…?
Nỗi ḷng viễn xứ
Quà tặng
Quê hưong
ngàn trùng
Đừng gọi tôi
là ân nhân
Mùa Thu đất
khách
Quê hương
tôi đánh mất
Từ biệt đồng đội
Dậy đi em
Ngày chia tay
Hương xưa của tôi
Nặng trĩu niềm dau
Nổi sầu muôn thuở
Thương em…
Đếm Sao…
Hè về không
Phượng đỏ
Về thăm chốn xưa
Ḍng Đời …
Ước mơ Phá Tam
Giang
Ánh trăng xưa
Anh hùng tử,
khí hùng bất tử
Một bài thơ không tên
45 năm đợi chờ & mơ ước
Sài G̣n yêu
Ngày đại thọ
Ḷng sơn gửi tạm
giữa đất trời
Mông lung
Ḥn khô
Đêm ngủ tôi mơ
Cali mùa hạnh ngộ
Nhớ măi
Vẫn t́m em
Tháng tư hành
Gánh phù vân
Quốc hận
Nhắn lời
I am a soldier
born to die
Tháng 2! Xuân vẫn
ngát hương đời
Nhớ xuân xưa
Xin em
Cũng đành thôi
Đêm xuân nhớ mẹ
Mừng sinh nhật
Phút cuối
Đoản khúc Đà Lạt
Chờ
Hương ḷng
Nỗi ḷng biết ngỏ
cùng ai ?
Cho anh
nói lời xin lỗi với thằng em
Hồn thức giấc
Khóc cho người nằm
xuống
Vọng cố hương… nỗi
nhớ
Nỗi niềm riêng
Hương xưa của tôi
Mùa Trạng Nguyên
Phạm Anh Dũng
(Vũ Đức Giang, trích từ Kỷ Yếu Y Khoa Sài G̣n 1967-1974)
Đây là bài viết chính là về Vũ Đức Giang, một người bạn thân cùng
lớp tại trường Đại Học Y Khoa Sài G̣n và cùng khóa Quân Y Hiện Dịch
21, khóa Quân Y Hiện Dịch (QYHD) cuối cùng của Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa (QLVNCH). Cũng thêm vào bài là các chi tiết, tạm gọi là bối
cảnh sơ lược, đáng nhắc lại, c̣n ghi nhận được của từng năm học,
liên quan đến cả học tŕnh Y Khoa bảy năm 1967-1974.
Tôi thi được vào năm Dự Bị Y Khoa (APM), niên khóa 1967-1968. Lúc đó
có biến cố Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968, ảnh hưởng mạnh đến mọi
người và chúng tôi, tất cả sinh viên, phải học quân sự tức là tham
dự chương tŕnh Quân Sự Học Đường (QSHĐ) để có kiến thức phải dùng
khi hữu sự. Chính quyền VNCH lúc đó chủ trương QSHĐ để hy vọng khi
cần đến, sinh viên dân sự cũng có thể cầm súng chiến đấu như các
quân lính chuyên nghiệp.
(H́nh chụp 1968 khi Lớp Dự Bị Y Khoa (APM) tham dự chương tŕnh
Quân Sự Học Đường.
Hàng đứng c̣n nhận được từ bên trái có Vơ Văn Thành, Bùi Trọng
Cường, khoảng giữa có Phan Xuân Tuấn, Dương Thanh Trắc, Nguyễn Kỳ
Chân; từ phải có Vũ Dũng, Nguyễn Văn Quốc, Đỗ Danh Toàn, Phạm Anh
Dũng.
Hàng ngồi đeo kính đen là Nguyễn Đăng Cung, khoảng giữa có Nguyễn
Hữu Nhiệm, cạnh người áp chót bên phải là Trần Trung Ḥa.)
Về học hành chính thức, chúng tôi là sinh viên của trường Đại Học
Khoa Học Sài G̣n và tuy học lớp tại Cơ Thể Học Viện cũ của trường Y
Khoa ở đường Trần Hoàng Quân, nhưng thực tập lại ở Khoa Học Đại Học
Đường Sài G̣n.
Chúng tôi học cả năm như vậy và cuối năm thi lên vào lớp Y Khoa năm thứ Nhất. Kỳ thi cuối năm của lớp APM thật khó khăn. Lớp Dự Bị Y Khoa tổng số có khoảng 380 người, mà chỉ có khoảng 250 người đỗ kỳ thi, được lên lớp. Trong số các bạn thi rớt cuối năm, có khoảng 50 người được “ở lại lớp” v́ chỉ có thi trượt thực tập, c̣n số c̣n lại bị loại hẳn ra khỏi chương tŕnh APM, v́ trượt thi viết. Những bạn không may mắn bị "rớt" lại APM, tôi nhớ có một số rồi cũng tốt nghiệp được Y Khoa, nhưng trễ lại 1 năm như Nguyễn Như Thành, Lê Thành Đấu, Trần Hoàng Long, Nguyễn Vơ Khanh...
Riêng cá nhân tôi, cả năm chỉ đi học thực tập là những giờ bắt buộc và chả mấy khi đi học ghi bài. Thường tôi chỉ đợi “cua” (bài học ghi lại) của ban Đại Diện lớp in, phát ra là đi lănh về học. Cuối năm cứ thế mà đi thi và cũng thi đỗ được hết, và được vào năm Y Khoa thứ Nhất. Tôi phải thú nhận thật may mắn, đậu hạng 9 hay 10 ǵ đó, và nên c̣n được học bổng của Bộ Y Tế khoảng 10 ngàn đồng Việt Nam, tiền lúc đó.
Lên năm thứ 1 Y Khoa, vào chính thức học ở trường Y Khoa, thay v́ Dự Bị Y Khoa APM do các giáo sư trường Đại Học Khoa Học giảng dạy, cách thi cử đổi khác. Cứ một vài tháng lại có kỳ thi, không Cơ Thể Học, cũng Sinh Hóa Học, rồi Mô Học... Quen tật xấu, tôi cũng chẳng đến trường ghi bài. V́ các kỳ thi gần nhau quá, ban Đại Diện lớp đôi khi không đủ th́ giờ in bài kịp cho sinh viên học. Kỳ thi đầu tiên của Cơ Thể Học sắp đến, chỉ c̣n có vài ngày, tôi vẫn chưa có một số tài liệu do Bác Sĩ Y Khoa Trần Anh, Thạc Sĩ Nhân Chủng Học, giáo sư chính phụ trách môn Cơ Thể Học, giảng dạy. Không đủ bài vở, tôi đến trường hỏi mượn để chép lại học. Đang vớ vẩn trước cái Đại Giảng Đường to lớn, th́ vừa đúng lúc nghỉ giải lao, sinh viên cùng lớp kéo nhau ra khỏi cửa. Là năm đầu tiên học ở trường Y Khoa, ít khi đến trường và lớp, tôi cảm thấy lạc lơng, nh́n ai cũng xa lạ cả. Tần ngần một lúc khá lâu, gặp một sinh viên khác vừa bước ra sau cùng. Tôi trông anh bạn đeo kính cận thị, có vẻ hiền lành, thành đánh bạo lại làm quen. Rất niềm nở và thông cảm, người bạn chưa quen trước và tốt bụng đó cho tôi địa chỉ nhà, hẹn buổi tối lại cho mượn bài. Đó là lần đầu tiên tôi gặp và quen Vũ Đức Giang.
Nhà của hai đứa cũng gần nhau, đều ở Đa Kao. Tôi ở đường Tự Đức. Nhà của Giang ở trong một ngơ của đường Phạm Đăng Hưng. Đó là một trong những nhà nhỏ, ngay dưới chân cầu Sắt, chiếc cầu nằm trên đường Nguyễn Văn Giai lối qua Gia Định, vẫn được gọi là "cầu Sắt", v́ cầu làm bằng sắt và tôi không biết tên thật của cầu là ǵ. Đi vào ngơ phía trong sâu chút nữa là nhà của Lê Huy Ḥe, cũng là bạn cùng lớp. Nhà của Giang đơn sơ, nhưng sạch sẽ. Giang là con trưởng ở với bố mẹ, một em trai và một em gái. Tôi không nhớ nhiều về bố của Giang v́ ông mất sớm, nhưng bà mẹ th́ thật hiền dịu, chiều và thương con, một bà mẹ Việt Nam lư tưởng. Cậu em trai, kém Giang và tôi chỉ một vài tuổi nhưng rất kính trọng, lễ phép với anh và bạn của anh. Cô em gái Giang ngọt ngào, giản dị và dễ mến.
Ngay buổi tối đầu tiên, Giang đă hơi làm lạ khi thấy tôi rủ đi uống cà phê nghe nhạc và tôi cũng hơi ngạc nhiên khi thấy bạn nhận lời ngay. Sau đó hai đứa mới khám phá ra là người bạn mới tuy có nhiều điểm khác ḿnh, nhưng cũng có cùng một sở thích là âm nhạc. Giang học rất chăm và khá đều, c̣n tôi, thú thật, hơi... làm biếng, chỉ bắt đầu học lúc sắp thi. Là cầu thủ bóng tṛn loại khá, lúc nào Giang cũng có mặt trong những lúc tranh giải túc cầu của lớp Y Khoa, trong khi tôi chỉ biết xem đá bóng và biết cổ vũ, ḥ hét, hoan hô. Tính của Giang trầm lặng, ít nói và tôi, ngày đó, sôi nổi hơn. Giang thích và hay ôm đàn guitar dạo, nhưng cũng như tôi, v́ chính yếu chỉ tự học, nên không khá lắm. Giang đập trống th́ khá hơn một chút. Về tŕnh diễn âm nhạc, Giang đủ sức tham dự những buổi văn nghệ tất niên tài tử trong lớp. Giang rất thích nghe nhạc, loại nhạc như nhạc Tiền Chiến, T́nh Ca Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên (học cùng thời với Giang, Nguyễn Hữu Thanh, Nguyễn Tiến Dũng, Vơ Tá Hân... ở trường Trung Học Nguyễn Trăi)... Vũ Đức Giang kể chuyện "hồi APM" lúc học Quân Sự Học Đường, hay đi hát đàn với hai bạn cùng lớp là Vương Đức Hậu và Nguyễn Minh Huấn. Có khi họ c̣n "chở ba" trên xe gắn máy và người nào ngồi giữa th́ cầm cái đàn guitar. Nghe kể như vậy, tôi thấy người bạn mới của ḿnh tính t́nh thật là "văn nghệ" rồi! C̣n cá nhân tôi, mê đàn hát từ những ngày c̣n bé. Cả hai đứa v́ không có "điều kiện" nên đều chưa bao giờ được học nhạc chính thức, từ thầy hay từ trường lớp, càng làm cho hai đứa hiểu nhau, gần nhau, rồi dần dần thân nhau nhiều.
Giang và tôi từ đó rủ nhau, ít nhất một tuần một lần, đi quán để uống cà phê, để hút thuốc lá, nói chuyện và nghe nhạc. Hai quán cà phê chúng tôi thường đến là quán Hân và Ly Tao. Cả hai quán đều có những nhạc thật hay.
Quán Hân ở đường Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao, trước cửa là hiệu phở Hoàn Kiếm, ngay gần nhà. Con gái chủ quán, thỉnh thoảng ra quầy thu tiền, là một cô gái xinh xinh, ngày đó, có một thời gian ngắn cũng đă là "cô em nhỏ" của Vũ Quốc Phong, một bạn cùng lớp Y Khoa. Đây là nơi chúng tôi được nghe những băng nhạc hiếm, có Duy Trác đằm thắm ấm áp hát "Thuở Ban Đầu" (Phạm Đ́nh Chương), Anh Ngọc điêu luyện với "Mắt Biếc" (Cung Tiến), Mai Hương thiết tha "Giấc Mơ Hồi Hương" (Vũ Thành), Châu Hà hát "Suối Tóc" (Văn Phụng) êm như mơ...
Quán Ly Tao gần nhà tù Chí Hoà. Chủ quán, ca sĩ Ngọc Long, là một người cao lớn. Quán có người hầu bàn cũng là con gái nhỏ nhắn của anh Ngọc Long. Cô bé gọi chúng tôi là chú xưng cháu, làm không khí ấm cúng và tự nhiên. Ở đây, Giang thường yêu cầu một băng nhạc rồi thẫn thờ, mê mẩn nghe bài "Chiều Mơ" của Vũ Đức Sao Biển do Ngọc Long hát:
"Chiều mơ anh sẽ về từ đèo cao hút
gió, có hoa xưa chờ người xưa đó.
Chiều mơ anh thấy em buông tóc bên trời, buồn một ḿnh trên tuổi
xuân phai.
Chiều mơ anh cầm đàn về bờ xưa suối biếc, hát em nghe ngàn lời
thương tiếc...".
Tôi thấy bạn rất có lư, Ngọc Long ít khi hát, có giọng thật trầm, thật "đầy", và hát bản này quả có một không hai. Vũ Đức Sao Biển nổi tiếng với bài "Thu Hát Cho Người" do Anh Ngọc hát thật hay, nhưng theo ư riêng của Giang "Chiều Mơ" tuyệt diệu hơn và lúc đó không được ai khác ngoài Ngọc Long tŕnh bày, tuy sau này có Mai Hương hát ở Hải Ngoại.
Đúng như cảm nghĩ ban đầu khi gặp gỡ, Vũ Đức Giang rất tốt với bạn bè. Bản tính rất hiền, và nhiều khi ngây thơ như một cô gái nhỏ. Giang hiền lành, hầu như không biết giận ai, thành hay bị tôi và các bạn thân khác trong cùng lớp Y Khoa như Quách Anh Dương, Nguyễn Hữu Thanh, Nguyễn Tiến Dũng... "bắt nạt" thường xuyên và Giang thường chỉ phản ứng bằng một nụ cười nhẹ nhàng. Tính Giang rất nhạy cảm, và thỉnh thoảng bị tôi trêu, v́ Giang có thể dưng dưng "mau nước mắt" khi có chuyện ǵ cảm động, ngay cả chỉ lúc nghe những bản nhạc đầy t́nh cảm mạnh như "Bà Mẹ Gio Linh" (Phạm Duy) do Thái Thanh hát. Giao thiệp với Giang khá lâu tôi mới biết thêm về con người của bạn. Tuy hiền lành, thích chiều bạn, hay nhịn người khác nhưng một khi đă tin vào chuyện ǵ th́ không có khi nào thay đổi ư kiến, nếu không có những sự kiện vững chắc chứng minh khác đi.
Năm thứ 1 Y Khoa của chúng tôi đánh dấu bằng một chuyện đau ḷng. Tháng Ba 1969, Giáo Sư Thạc Sĩ Trần Anh, một bác sĩ rất giỏi, đang đảm nhiệm chức Viện Trưởng Viện Đại Học Sài G̣n ngoài chức Trưởng Khu Cơ Thể Học Viện của Đại Học Y Khoa, bị ám sát, bắn chết bằng súng lục, trong khi sau giờ làm việc, ông đi bộ từ trường Y Khoa về nhà, gần Đại Học Xá Minh Mạng. V́ ông là giáo sư chính hướng dẫn cho Y Khoa 1, đám tang của thầy, chúng tôi thay nhau "đứng gác" quan tài. Phải nói, tất cả chúng tôi và nhất là Vũ Đức Giang bị xuống tinh thần khá lâu, v́ cái chết của người thầy đáng kính trọng. Giang tính t́nh nhậy cảm buồn đến cả tháng mới nguôi. Măi sau 1 thời gian giáo sư Bác Sĩ Thạc Sĩ Nguyễn Hữu từ Pháp về, đứng ra lănh trách nhiệm dẫn dắt sinh viên Y Khoa 1 môn Cơ Thể Học.
Sau khi thi đỗ lên năm Y Khoa 2, một buổi tối hơi lành lạnh, khí hậu hiếm thấy ở Sàig̣n, hai đứa khi "ngồi" quán Hân nh́n khói thuốc bay lững lờ, ngắm từng giọt cà phê phin đen chảy và nghe nhạc, Giang đột nhiên cho tôi biết quyết định nộp đơn thi vào QY (Quân Y) và rủ tôi cùng theo. Giang nói cho tôi nghe về ước muốn trở thành y sĩ nhảy dù. B́nh thường, Giang chỉ nhỏ nhẹ, nhưng lúc đó nh́n và nghe Giang, thấy nó thật cương quyết. Tôi đồng ư ngay, không chần chừ, nhưng theo tôi binh chủng nào cũng được. Về sau kéo thêm được Vũ Quốc Phong, Nguyễn Minh Huấn, Đoàn Trung Bửu... cũng thi đỗ và gia nhập Quân Y. Khoảng thời gian đó vừa sau vụ Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa miền Nam vừa chiến thắng một cách dũng cảm và tinh thần thanh niên đang được kích thích sôi động.
Cuộc đời Quân Y có những điều thật
bất ngờ. Chúng tôi cứ nghĩ Sĩ Quan Quân Y sẽ gian khổ khi ra trường
lúc chiến đấu, c̣n lúc là Sinh Viên Quân Y th́ chỉ tập tành quân sự
chút ít mỗi mùa Hè, và trong năm th́ giờ dành cho việc học. Một buổi
trưa nắng và gió tháng Giêng 1970 sau khi làm thủ tục được phát quần
áo, giày "bốt đờ sô"... tôi và Giang chở nhau vào trường Quân Y ở
đường Nguyễn Tri Phương, Sài G̣n bằng chiếc xe gắn máy "Honda dame"
của tôi để tham dự Tám Tuần Lễ Huấn Nhục. Hai đứa khệ nệ khiêng mỗi
đứa một bị to. Ngoài những đồ đạc nhà binh lỉnh kỉnh như "bi đông",
xẻng xúc đất, "gào mên"... c̣n nặng đầy sách vở, tưởng sẽ vào đó
ngồi học bài ngay! Ba ông anh huynh trưởng sinh viên quân y do Sinh
Viên Quân Y năm thứ 6 Tô Phạm Liệu chỉ huy đă đợi sẵn ở cổng vào.
Không thấy đàn anh nào cười đón mừng cả! "Ông" nào trông cũng nghiêm
và khó quá. Mấy chục tân sinh viên Quân Y, mới nhập ngũ, là những
sinh viên Y Khoa 2 lớp chúng tôi, lớp Y Khoa 1 như Lê Quang Minh,
Phạm Quang Tố, Ngô Hoàng Lâm, Lê Thành Đấu...), sinh viên Dược như
Mai Gia Thược (Thược về sau tự tử trong trại Cải Tạo), Phạm Đức
Thụy... và sinh viên Nha. Vũ Quốc Phong có giọng nói to, hoạt bát và
có dáng điệu chững chạc nhất được cử làm Tân Sinh Viên Đại Đội
Trưởng cho Đại Đội Tân Sinh Viên Quân Y. Ngay sau đó, đám tân sinh
viên Quân Y chúng tôi được lệnh ôm gói hành trang nặng trĩu chạy
chung quanh Vũ Đ́nh Trường của trường Quân Y, theo ba ông đàn anh
cho đến khi gần... xỉu. Thật là bất ngờ!
(H́nh chụp tháng Giêng 1970.
SVQY Tô Phạm Liệu, người mặc quân phục, đứng đối diện các các Tân
SVQY đa số mặc thường phục, đến tŕnh diện nhập ngũ ở Trường Quân Y.
Từ phải qua trái của hàng đầu tiên, c̣n nhận ra được là Tân SVQY
Châu Văn C̣n, Lê Quang Minh, Ngô Hoàng Lâm, Trần Ngọc Thạch. Sau
lưng Châu Văn C̣n là Lê Thành Đấu. SVQY Ngô Thế Khanh mặc quân phục,
đứng ở b́a trái của h́nh)
Rồi cứ như vậy mỗi ngày, các đàn anh sinh viên quân y như Tô Phạm
Liệu, Phạm Gia Cổn, Phạm Đặng Long Cơ, Nguyễn Ngọc Ấn, Ngô Thế
Khanh... lần lượt thay phiên nhau cho các đàn em mới "nếm mùi" Quân
Đội. Khi c̣n là sinh viên dân sự, tôi đă từng đi học quân sự ở Quang
Trung hai lần và Thủ Đức một lần nhưng không thấy chỗ nào có thể
gian lao như là tám tuần lễ huấn nhục ở trường Quân Y. Những khóa
huấn nhục quân y trong những năm trước chỉ có 6 tuần và khóa của
chúng tôi lại kéo dài đến 8 tuần. Theo các đàn anh cho biết th́
những năm trước cũng có thời gian huấn nhục nhưng v́ "thông cảm" là
cùng với quân sự, các đàn em vẫn phải "học chữ" ở các trường Y Nha
Dược. Khóa của tôi th́ đặc biệt sao đó, có nhiều đàn anh Quân Y có
lư tưởng mạnh và nhiệt thành do đó muốn huấn luyện chúng tôi thành
những sĩ quan ṇng cốt cho ngành Quân Y trong tương lai. Dù muốn hay
không, Trường Quân Y cũng là một trong những trường Sĩ Quan Hiện
Dịch khác của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa như trường Vơ Bị Quốc Gia
Đà Lạt, trường Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị... Tân Sinh Viên Quân Y
ngoài sự huấn nhục thể xác và tinh thần ở trường Quân Y, chắc chắn
không thể so với trường chuyên nghiệp quân sự Vơ Bị Đà Lạt nhưng
chúng tôi c̣n thêm sự lo lắng như những sinh viên Y Nha Dược ngoài
dân sự là vẫn phải đi học, học bài rất nhiều của các ngành Y Dược
Nha. Và nếu không thi đỗ, th́ bị ở lại lớp hay có khi "ra trường
sớm" (sortie latérale) tức là bị loại khỏi trường Y Khoa, nếu thi
trượt hai lần. Nhất là ngày đó chúng tôi Y Khoa Hai có môn Kư Sinh
Trùng Học do Giáo Sư Bác Sĩ Đỗ Thị Nhuận tuy rất tận tâm nhưng cũng
nổi tiếng rất nghiêm khắc, trong việc học hành, thi cử của sinh viên
và có lúc thẳng tay "đánh rớt" những người không đủ điểm.
Trong số các đàn anh có ba người khó tính nhất cùng ở một toán huynh trưởng huấn luyện là anh Cảnh, Đức và Ấn (anh Nguyễn Ngọc Ấn khóa 18 Quân Y Hiện Dịch, sau đi Biệt Động Quân, tác giả bài "7 Ngày Ở Quảng Trị" viết về chuyện bị bắt làm tù binh ở trận Hạ Lào, khi bị đưa ra Bắc, và măi sau mới được hoán chuyển tù binh về lại được miền Nam). Ba ông này huấn nhục chúng tôi theo đúng nghĩa huấn nhục, ngay từ buổi đầu tiên với các h́nh phạt nặng, v́ những lư do đôi khi thật là vô lư. V́ không được chuẩn bị tinh thần nên các đàn em rất ngạc nhiên và có thể nói là bất măn. Một buổi chiều, như thường lệ, ba ông đàn anh đem cả Đại Đội Tân Sinh Viên ra phạt tới tấp v́ một cái lỗi rất là nhỏ, tôi không nhớ rơ và hành xác đàn em khoảng một tiếng đồng hồ dưới trời nắng chang chang. Đoán biết có sự bất măn, anh Cảnh trước khi giải tán đại đôi, tuyên bố sẽ tập họp lại buổi tối và nói rơ ràng nếu có ai không bằng ḷng th́ lúc đó cho biết để các đàn anh sẽ cho phép "rời khỏi Quân Đội". Giang, vài bạn nữa và tôi có họp lại bàn chuyện này. Mấy ông đàn anh th́ cũng dự định "dọa già" các em thôi. Các ông em ngây thơ, tin thật và hẹn nhau nhất định giữ vững lập trường dù có ǵ xảy ra. Tối hôm đó, Vũ Đức Giang, Nguyễn Minh Huấn và Phạm Anh Dũng đă đứng ra khỏi hàng để được "cởi áo nhà binh", như các anh đă hứa hẹn. Sau đó th́ chúng tôi "vỡ mộng"! Những đàn anh ra lệnh cho Vũ Quốc Phong đứng ra phạt chúng tôi. Phong nhận thấy sự vô lư, v́ các bạn của ḿnh chỉ bày tỏ ư kiến khi được đàn anh hỏi thôi, nên nhất định không tuân lệnh. Ba ông đàn anh nổi giận phạt riêng Phong trước hàng quân và rồi phạt cả đại đội chạy vài ṿng Vũ Đ́nh Trường. Riêng ba đứa chúng tôi th́ biết thêm h́nh phạt Dă Chiến là ǵ, đêm hôm đó. Các ông anh thay nhau phạt 3 đứa tôi cả đêm dài. Đến sáng ra, khi hỏi lại chúng tôi vẫn cương quyết giữ ư kiến đ̣i "rời khỏi Quân Đội" như đàn anh đă hứa. Riêng Vũ Đức Giang, khi được cho nghỉ vài phút, đă thu dọn cho đồ nhà binh vào bị và mặc sẵn quần áo dân sự từ lúc nào rồi. Lúc này các ông đàn anh cũng hơi lúng túng, không biết xử trí ra sao. Huynh trưởng Tô Phạm Liệu phải đến gọi riêng ba đứa em ra khuyên bảo. Anh Liệu nói nhiều về t́nh cảm anh em trong gia đ́nh Quân Y và giảng cho các đàn em bướng bỉnh hiểu về mục đích chính của thời gian huấn nhục chỉ làm cho tân sinh viên tập quên đi cá nhân của ḿnh và nghĩ đến tập thể, tương lai, tổ quốc... Anh nói rất hay, chúng tôi cảm động nhiều và riêng Giang phải long lanh nước mắt.
Chúng tôi hiểu, không xin "rời khỏi Quân Đội" nữa và rồi theo thời gian, cũng quen đi những huấn luyện về thể xác và tinh thần để sửa soạn thành những Quân Y Sĩ trong tương lai. Thôi th́ đủ tṛ phạt, hít đất, chạy... Một lần tôi đang ở trong hàng nghe anh Phạm Gia Cổn "thuyết pháp", không hiểu sao, lỡ dại không nhịn được phải ph́ cười, và bị anh phạt. Anh cho là tôi "cười nhỏ quá", nhiều người chưa được nghe và bắt thằng em đứng giữa hàng quân cười thật to 10 lần để cả Đại Đội được nghe. Tôi nhớ măi bị khản giọng, mất tiếng đến cả mấy ngày. Nhưng kể từ ngày đó, 2 anh em chúng tôi lại quen biết thân nhau, thân nhau nhiều, thân nhau măi cho đến khi anh qua đời năm 2022. Những tuần lễ huấn nhục của Tân Sinh Viên cũng qua đi, trở thành những kỷ niệm thú vị không bao giờ quên. Khi chúng tôi tổ chức Đêm Lễ Gắn Alpha theo sau là buổi văn nghệ măn khóa, cả Giang và tôi đều vào ban văn nghệ tŕnh diễn. Tôi c̣n nhớ măi kỷ niệm Nguyễn Minh Huấn hôm đó hát "Nguyệt Cầm" của Cung Tiến-Xuân Diệu.
Lên năm thứ 3 Y khoa, sinh viên bắt đầu thực tập ở bệnh viện và cũng bắt đầu được chia đi gác đêm. Tôi và Giang có một kỷ niệm không bao giờ quên ở nhà thương Hồng Bàng là nơi chuyên trị những bệnh nhân bị bệnh Lao, nhiều người thật nặng, ngày nào h́nh như cũng có người chết. Pḥng trực cho sinh viên Y Khoa ở chỗ vắng vẻ, cách xa ṭa nhà chính, nơi bệnh nhân nằm dưỡng bệnh. Ban đêm vắng mà bị gọi khi bệnh nặng hay khi bệnh chết th́ rất ngại, v́ phải đi bộ khá xa và "đường xá" th́ tối mù mịt. Các đàn anh Y Khoa thường bảo là chỗ đó có... ma! Chuyện ma của nhà thương Hồng Bàng cũng đă có nhắc đến trong quyển "Thế Giới Trường Thuốc" của Đặng Đức tức Bác Sĩ Đặng Đức Nghiêm. Tôi vừa đọc xong quyển sách vài ngày hôm trước và vẫn c̣n đang bị ám ảnh. Anh bạn cùng lớp, tôi không nhớ rơ tên, được chia trực cùng đêm lại bị ốm, nên tôi "năn nỉ", rủ Giang đi cho đỡ sợ. Đêm khuya hôm đó đang ngủ th́ nghe tiếng động lục cục ở ngoài cửa pḥng, Giang giật ḿnh thức giấc và lay tôi dậy. Tôi thu hết can đảm dậy bật đèn, lên tiếng hỏi nhưng không thấy ai trả lời. Tiếng động nghe như là chân người mang guốc bước qua lại trên sàn xi măng tiếp tục khá lâu cũng đến khoảng 5-10 phút. Tiếng động đó cũng mất đi nhưng cả hai đứa đều sợ xanh mặt, để đèn sáng và không ngủ được cho đến sáng. May mà đêm đó cũng không bị gọi lên trại bệnh thành cả hai nằm im lặng trong giường cho đến lúc thấy trời sáng tỏ nghe thấy tiếng người th́ mới ṃ ra ngoài cửa. Chúng tôi cũng không t́m được, thật ra là không dám đi t́m lư do của cái tiếng động kỳ quái giữa đêm khuya vắng. Cũng có thể chỉ là do gió mạnh đập cành cây hay cái ǵ vào tường hay cửa sổ chăng?
Cũng nói qua, vào khoảng 1970, sau Chiến Dịch Campuchia của quân lực Hoa Kỳ và QLVNCH và v́ bị "cáp duồn" như các kiều bào Việt khác, các sinh viên học Y Khoa Campuchia như Nguyễn Mạnh Khang, Hà Phi Phụng, Mai Thế Vĩnh, Hồ Hoàng Trang, Nguyễn Thanh Phong... phải chạy thoát về Việt Nam để cuối cùng được nhận vào Y Khoa Sài G̣n, vào lớp Y Khoa Sài G̣n 1967-1974 chúng tôi.
1972, năm của những Mùa Hè Đỏ Lửa, Đại Lộ Kinh Hoàng, Cổ Thành Quảng Trị (Chiến Dịch Lam Sơn 72)... Đây cũng là năm của "Tổng Động Viên" khi chúng tôi đang học Y Khoa 4, năm thứ Tư Y Khoa. Tôi nhớ một số anh em "Dân Y" như Hoàng Lộc (Lộc sau 1975 bị giết chết ở trại Cải Tạo), Nguyễn Mạnh Khang, Lê Minh Đức, Trần Thiện Tư, Trần Chánh Khương, Lại văn Tiến, Nguyễn Minh Quốc, Đào Văn Kim, Trần Hoàng Hải, Ngô Đăng Tuấn, Lại Hoàng Ân, Lưu Văn Châu , Trương Hoàng Nghiệp... quá tuổi, sinh vào 1947 hay trước nữa, bị "đôn quân", phải nhập ngũ học khóa sĩ quan ở Đồng Đế, "ra" chuẩn úy. Tuy vậy một thời gian sau, đa số về sau cũng được thầy bác sĩ Trần Lữ Y, lúc đó là Tổng Trưởng Y Tế chính phủ Nguyễn Cao Kỳ thành có thế lực, can thiệp xin cho về học lại Y Khoa, nhưng kết quả ra trường trễ hơn các bạn cùng lớp 1 năm.
1972, chiến tranh bùng nổ lớn ở miền Trung. Dân Quảng Trị chạy giặc vào tạm trú hàng chục ngàn người ở những trại tị nạn xung quanh Đà Nẵng. T́nh trạng y tế của các trại tị nạn rất nghèo nàn. Không đủ y sĩ để săn sóc dân và chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa phải nhờ đến các sinh viên quân y giúp. Tôi và một số anh em sinh viên khác của lớp Quân Y Y Khoa 4 như Nguyễn Trọng Nghĩa, Đoàn Trung Bửu, Trương Ngọc Hiền... Quân Y Y Khọa 5 như Phạm Hiếu Liêm, Bùi Quang Dũng, Bùi Hữu Phước, Nguyễn Anh Tuấn... Quân Y Y Khoa 3 như Trần Hoàng Long, Trần Đông Giang, Nguyễn Văn Hăn, Lê Thành Đấu, Nguyễn Vơ Khanh... Quân Dược như Nguyễn Hiền, Mai Gia Thược (Thược sau tự tử trong Trại Cải Tạo) , Châu Minh, Nguyễn Văn Trực, Nguyễn Quang Toản... được cử ra miền Trung để giúp vào việc lo y tế cho đám dân tị nạn vài tháng. Đối với đời sinh viên Quân Y th́ chuyến đi cũng đầy những lo lắng nhưng cũng thật thú vị và hồi hộp. Tôi chỉ có một chuyện duy nhất lo lắng là chị Nga, bà chị ruột của tôi, vừa bị nám phổi nhẹ nhưng phải chích thuốc chống Lao Streptomycin mỗi ngày. Vũ Đức Giang, không phải đi ra miền Trung chuyến này, biết chuyện và nhận giúp ngay. Trong những ngày tháng tôi lưu lạc ở Đà Nẵng, Giang đă đến nhà tôi mỗi ngày để chích thuốc cho chị Nga. Mẹ tôi hiền nhưng bố tôi tính khó, nên ít có bạn thường lại nhà. Giang th́ đặc biệt lại nhà tôi thường xuyên. Bố mẹ tôi rất quư tính nết hiền, tốt và lễ phép của Giang. Chị Nga tôi thương mến Giang coi như em ruột trong nhà.
Sau khi đám Sinh Viên Quân Y ở Đà Nẵng được vài tháng, tại Sàig̣n Y Sĩ Đại Tá Nhảy Dù Hoàng Cơ Lân về làm Chỉ Huy Trưởng Trường Quân Y thay Y Sĩ Đại Tá Hải Quân Phạm Vận. Đại Tá Lân, ngày đó, là một người đầy nhiệt huyết và thanh liêm có tiếng. Tính t́nh ông, nóng nảy, nhưng thẳng thắn và ông rất được kính nể trong ngành Quân Y. Đại Tá ra lệnh cho tất cả sinh viên đang đi quân sự vụ tại miền Trung về lại Sài G̣n, để tiếp tục việc chính là học Y Khoa. Theo quan niệm của ông, vấn đề quan trọng nhất trong việc đào tạo Sĩ Quan Quân Y giỏi là Sĩ Quan Quân Y phải nghĩ đến chuyện học trước hết. Chuyện chữa bệnh cho dân tị nạn để cho người khác, chính phủ lúc này đă xoay sở lấy được. Về Sài G̣n, một số anh em, trong số đó tôi c̣n nhớ có Vũ Đức Giang, Phạm Anh Dũng, Lư Văn Quư (Quân Nha)... rủ nhau nộp đơn xin đi học bằng Nhảy Dù, như các khóa đàn anh trước vẫn được phép, nhưng không được ông Lân chấp thuận, chắc cũng v́ lư do này. Giang bực ḿnh nhiều về chuyện đó, v́ vẫn muốn sẽ gia nhập nhảy dù. Mỗi lần nh́n "đàn anh mũ đỏ" như Tô Phạm Liệu, Phạm Gia Cổn... lúc đó đă ra những đơn vị chiến đấu nhảy dù thỉnh thoảng vẫn về thăm trường với binh phục rằn ri, Giang vẫn tấm tắc khen và... mong ước!
V́ là "gốc" Nhảy Dù nên Đại Tá Hoàng Cơ Lân hơi có thiên vị cho binh chủng này và tôi nghĩ có lẽ chính ông đă tuyển lựa nhiều sĩ quan nhảy dù về trường Quân Y, có những Y Sĩ như Trung Tá Vũ Khắc Niệm, Thiếu Tá như Lê Văn Châu, tác giả quyển "Y Sĩ Tiền Tuyến" được giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc 1969, Đại Úy như Hoàng Ngọc Giao, Đường Thiện Đồng.... C̣n ngành Dược th́ có Đại Úy Trần Mạnh Anh... và đa số giữ những chức vụ huấn luyện cho đám sinh viên quân y. Thật sự đây là điều rất tốt, v́ những vị này phần lớn đều khá và xứng đáng được làm gương. Cũng có một số Quân Y Sĩ binh chủng "rằn ri" khác được "gọi về" phục vụ ở Trường Quân Y như Thiếu Tá Trần Xuân Dũng từ Thủy Quân Lục Chiến và Đại Úy Ngô Thế Vinh, tác giả quyển "Ṿng Đai Xanh" được giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc 1971, từ Biệt Cách Dù. Đại Tá Lân để ư đến sinh viên từ những chuyện tầm thường nhất như đi đứng, y phục, ăn uống... cho đến những chuyện quan trọng thi cử, học hành... Chính ông thường bất thần xuống khu nội trú xem xét đời sống sinh viên hầu như mỗi ngày. Nhiều khi tôi có cảm tưởng ông coi các sinh viên quân y như là những em nhỏ dại dột của chính ông cần được săn sóc cho thành người tốt.
Đại Tá Hoàng Cơ Lân, lúc đó, có rất nhiều ư kiến mới lạ, áp dụng vào việc huấn luyện sinh viên. Tất cả sinh viên quân y phải nội trú trong trường Quân Y để tập quen với đời lính. T́nh cảm giữa các sinh viên quân y đối với nhau trở thành gắn bó hơn. Ông lập vơ trường cho sinh viên tập Nhu Đạo, tôi nhớ có hai Y Sĩ Thiếu Tá Lê Trọng Tín và Đỗ Danh Thụy hướng dẫn . Ông c̣n tổ chức những buổi nói chuyện cho sinh viên mở rộng kiến thức. Nhiều nhân vật nổi tiếng ngoài dân sự như nhà văn Hoàng Hải Thủy diễn thuyết về "Y Sĩ và Văn Nghệ", linh mục Thanh Lăng nói chuyện về "Văn hóa dân tộc và vấn đề Hùng Vương"... là các vấn đề tổng quát, văn học nghệ thuật. Rồi đến Bác Sĩ Giáo Sư Hoàng Tiến Bảo, Giảng Sư Trần Xuân Ninh, Đinh Hà... nói về chuyên môn Y Khoa. C̣n có các diễn giả là đàn anh Quân Y của chúng tôi đă ra trường như Đại Tá Văn Văn Của về nói chuyện để truyền kinh nghiệm đến đàn em. Có một hôm, anh Trần Xuân Dũng, đă từng là Y Sĩ Thiếu Tá Thủy Quân Lục Chiến, thuyết tŕnh về chuyện ǵ đó. Tôi ốm không đi được nhưng Giang đi nghe và khi về kể lại lấy làm thú vị, thích lắm v́ anh Dũng dáng dấp thư sinh, nhưng nói chuyện rất hay và có duyên. Từ ngày đó thỉnh thoảng Giang cũng nói với tôi là có thể sẽ chọn Thủy Quân Lục Chiến khi đến lúc ra trường.
Công việc học hành, thi cử ở trường Y Khoa song song với chuyện quân sự ở Trường Quân Y rồi cũng qua dần. Hiệp Định Ḥa B́nh Paris 1973 của Kissinger và Lê Đức Thọ, khi tôi đang học Y Khoa năm thứ 5, thực tế chỉ là một "tờ giấy lộn" và chả hiểu tại sao v́ "nó" mà 2 người này họ lại được giải Nobel Ḥa B́nh! Bộ Đội miền Bắc không tôn trọng những ǵ đă cam kết, vẫn xâm nhập miền Nam và Nam Bắc vẫn tiếp tục phân tranh. Phải nói tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng ḥa bị suy giảm nghiêm trọng, nhất là sau khi Richard Nixon từ chức v́ vụ Watergate vào tháng 8 năm 1974 và viện trợ quân sự của Mỹ cho Việt Nam Cộng ḥa đă dần bị cắt giảm rất nhiều.
Lúc đó, chúng tôi ít có giờ học ở trường hơn những lớp dưới và được cử đi thực tập nhiều ở các bệnh viện. Một vài tháng đầu tiên của năm thứ 5, Giang và tôi đến phiên học ở Bệnh Viện Nhi Đồng nơi có trẻ con bị bệnh nặng chết nhiều và chúng tôi được gọi kư giấy tử, có khi 5, 6 lần một đêm gác. Tôi nhớ măi Giang được cử săn sóc một đứa bé trai độ 5 tuổi bị phù thủng rất nặng, khắp cả người sưng vù (edema) v́ một bệnh về thận. Bố mẹ đứa nhỏ đă định sửa soạn ngày tang ma v́ tưởng con không thể qua nổi cơn bệnh. Giang rất tận tâm chịu khó đọc sách, hỏi han những anh nội trú bệnh viện chữa cho thằng bé bằng kích thích tố tuyến thượng thận (corticosteroid) và kết quả rất thành công. Giang khá thật, chỉ một thời gian ngắn thằng bé đă đỡ hẳn. Bác Sĩ Giáo Sư Trịnh Thị Minh Hà, trưởng khu bệnh là người nổi tiếng giỏi nhưng rất khó tính cũng phải ngạc nhiên và vui ḷng. Tôi nh́n thằng bé con vui đùa, tung tăng chạy nhảy lúc được xuất viện mà thầm phục thằng bạn của ḿnh lầm ĺ, ít nói nhưng có tài. Sinh viên ngoại trú Y Khoa đầu năm thứ 5 mà có thể làm được chuyện như vậy không phải dễ. Giang rất thích trẻ con, sau kỳ học đó lại nộp đơn quay lại Nhi Đồng một lần nữa.
Chẳng mấy chốc đă đến năm thứ 6 là Y Khoa, năm cuối cùng của học tŕnh 7 năm "dài đăng đẳng". Một số chúng tôi được cử để phụ trách huấn nhục đám đàn em mới vào và "lịch sử lại tái diễn"! Chúng tôi cũng đến lượt trở thành những đàn anh ḥ hét, huấn nhục đàn em. Lúc đó, chính bản thân tôi lại được cử ra làm sinh viên quân y Đại Đội Trưởng Đại Đội Tân Sinh Viên, y như là anh Tô Phạm Liệu năm 1970, phụ trách việc huấn luyện này.
Sau khi thi xong kỳ thi Bệnh Lư ở trường Y Khoa, Khóa 21 Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch QYHD, khóa Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa làm lễ ra trường. Chúng tôi được chính thức đeo lon Y Nha Dược Sĩ Trung Úy.
Tháng Hai 1975, "cả nước" rúng động v́ tỉnh Phước Long đă mất. Ngày 20 tháng Hai 1975 là ngày chọn đơn vị. Đa số bạn bè xôn xao, bàn tán về những binh chủng khác nhau. Tôi vẫn có chủ trương như cũ, đơn vị nào cũng vậy và cuộc đời có lẽ có sẵn số mệnh cả. Rồi tùy theo theo thứ tự đậu cao chọn trước, đỗ thấp lựa sau.
Những người đậu cao chọn chỗ ở Tổng Y Viện Duy Tân có Bạch Thế Thức, Phan Thanh Hải. Về QYV (Quân Y Viện) có Nguyễn Phan Khuê (Thủ Khoa khóa 21 QYHD) QYV Ban Mê Thuột, Trần Trung Ḥa QYV Quảng Đức, Nguyễn Dương Mỹ QYV Nguyễn Tri Phương, Trần Ngưu Tử và Nguyễn Chí Vỹ chọn về QYV Pleiku.
Có 2 chỗ Hải Quân cũng dành cho những người xứng đáng học khá giỏi và đậu cao là Nguyễn Văn Công và Nguyễn Văn Chiếu.
Nhảy Dù, binh chủng "rằn ri" mũ đỏ, hết khá sớm v́ Châu Hữu Hầu, Trương Văn Như, Nguyễn Xuân Thiều, Nguyễn Văn Liêm, Trần Duy Thanh, Nguyễn Văn Thịnh và Nguyễn Văn Thạnh đă lựa chọn ngay.
Về Thủy Quân Lục Chiến, mũ xanh, 9 người, có Vũ Đức Giang, Nguyễn Tiến Dũng, Bùi Ngọc Sĩ, Nguyễn Bá Linh, Trương Ngọc Hiền, Nguyễn Văn Châu, Bùi Chí Hùng, Huỳnh Đ́nh Đại, và Hồ Đ́nh Dư.
Chọn đi các Bộ Binh của tất cả 4 vùng quân sự: Vùng I Chiến Thuật có Chu Kỳ Đức; Nguyễn Đ́nh Ngọc, Nguyễn Đỗ Quan và Hồ Thanh Tùng chọn Sư Đoàn 1 Bộ Binh; Lê B́nh Đẳng và Vơ Dũng chọn Sư Đoàn 2 Bộ Binh; Vũ Quốc Cường và Phạm Anh Dũng chọn Sư Đoàn 3 Bộ Binh. Vùng II Quân Sự có Phan Ngọc Hà, Lê Vĩnh Thịnh, Thái Văn Châu và Nguyễn Khánh Hỷ về Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Vùng III có Lê Huy Ḥe chọn Sư Đoàn 5 Bộ Binh; Mai Thanh Hồng chọn Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Lê Văn Cẩm chọn về Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Vùng IV có Nguyễn Văn Quốc chọn Sư Đoàn 7 Bộ Binh, Huỳnh Thắng Toàn và Nguyễn Văn Đơ chọn Sư Đoàn 9 Bộ Binh, Nguyễn Minh Huấn và Phạm Văn Hạnh cùng về Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Biệt Động Quân, binh chủng "rằn ri" mũ nâu, đang dự định đưa Y Sĩ xuống cấp tiểu đoàn theo như Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến và do đó lấy khá nhiều. Đó là Nguyễn Tài Mai (Sinh Viên Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Sinh Viên Quân Y, "gốc" Thiếu Sinh Quân), rồi đến Nguyễn Quốc Anh, Ngô Bá Bảo, Đoàn Trung Bửu, Nguyễn Kỳ Chân, Nguyễn Đăng Cung, Nguyễn Hữu Chí, Nguyễn Văn Đổng, Nguyễn Hữu Khoát, Nguyễn Phong Nghi, Hồ Sĩ Nghĩa, Nguyễn Văn Tân, Tề Văn Tiếng, Đỗ Danh Toàn, Vũ Ngọc Tuấn và Nguyễn Tấn Việt.
Một số chọn những đơn vị lẻ tẻ, nhưng đặc biệt như Huỳnh Minh Châu về Nha Kỹ Thuật Tổng Tham Mưu, Dương Thanh Trắc chọn Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, Trịnh Ngọc Toản "đi" Tiểu Đoàn 12 Kỵ Binh Thiết Giáp và Phạm Hồng Hải "về" Liên Đoàn 72.
Sau ngày chọn đơn vị, tôi lại nhà Vũ
Đức Giang ngày cuối tiễn Giang ra tŕnh diện đơn vị. Giang mặc quân
phục "rằn ri" mới, đeo lon đỏ, đội mũ xanh của Thủy Quân Lục Chiến,
trông thật lạ mắt. Giang giới thiệu tôi với hôn thê mới của ḿnh, là
một giáo sư trường trung học ở Sài G̣n. Cô vợ chưa cưới của Giang
tên là Mai, trông thật ngoan và hiền dịu. Trước khi từ giă, Giang
đưa tặng tôi cặp lon Trung Úy và bảng tên màu đen dùng cho những đơn
vị tác chiến, dặn ḍ tôi phải cẩn thận v́ chiến cuộc đang gay go.
Nh́n tôi khá lâu vào mắt, hơi khác thường, Giang bắt tay từ giă. Cả
mấy năm trời thân thương với nhau, chúng tôi chưa hề bắt tay nhau
bao giờ. Lần đó là lần đầu tiên và không ngờ, cũng là lần cuối cùng
tay chúng tôi bắt tay. Đó là lần cuối cùng hai đứa gặp nhau. Giang
ra thay một đàn anh ở Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến, tham chiến
ngay ở gần Huế. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vừa ra lệnh rút Sư Đoàn
Nhảy Dù về trấn giữ Sài G̣n và để một số Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến
cùng vài Liên Đoàn Biệt Động Quân thay. Giao chiến khốc liệt đẫm máu
xảy ra ở những vùng quanh Huế, Quảng Trị, Đại Lộc... Nguyễn Tiến
Dũng thành Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến đóng ở tuyến
đầu Quảng Trị.
Cuộc đời Y Sĩ Tiền Tuyến chúng tôi thật sự khởi đầu.
Tôi đến Sư Đoàn 3 Bộ Binh gần Đà Nẵng. Vũ Quốc Cường về cùng đơn vị đă tŕnh diện trước tôi một vài ngày. Ngày Xuân, tháng Ba mà đă nóng như lửa. 11 giờ trưa tŕnh diện Tiểu Đoàn 3 Quân Y. Dược Sĩ Trung Úy Lê Văn Khoa rủ ăn trưa với các Y Sĩ Trung Úy của Sư Đoàn 3 như Nguyễn Hữu Măn, Đào Tư Huyền, Lê Văn Thu...và chỉ dẫn chút ít về doanh trại. Vũ Quốc Cường dẫn tôi đi tắm suối xong 2 giờ chiều cùng ngày tôi được ông Thiếu Tá Y Sĩ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Quân Y gửi đến Trung Đoàn 2 Bộ Binh. Vũ Quốc Cường được giữ lại Sư Đoàn. Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 3 và Trung Đoàn 1 của Sư Đoàn 1 là hai đơn vị thiện chiến có tiếng trong các đơn vị Bộ Binh của Vùng I Quân Sự. Trung Đoàn 2 đang đóng và chiến đấu ở Quế Sơn. Tôi đến thay cho Y Sĩ Trung Úy Bùi Trần Anh ở trung đoàn này đă được vài năm.
Đến lúc đó tôi mới thấy cái đời sống thật sự của những Y Sĩ ở mặt trận không c̣n những lúc văn chương thơ mộng như ḿnh đă tưởng tượng, như khi đă đọc ở quyển "Y Sĩ Tiền Tuyến" của Trang Châu. Quyển sách của anh Châu, viết có lẽ chỉ khoảng 5,6 năm trước và thời gian đó đă trở thành phải nói có những chỗ không c̣n "hợp thời" nữa. Chiến tranh sau này phũ phàng và tàn bạo hơn nhiều. Tôi thông cảm và kính phục các vị Quân Y Sĩ đàn anh bao nhiêu năm gian khổ, nguy hiểm nơi tiền tuyến. Cảm giác lạnh lẽo, cô đơn một ḿnh giữa đêm khuya ở bệnh xá Trung Đoàn thật khó quên. Những buổi trưa ấn vội nắm "cơm sấy" vào mồm cho đầy bụng để c̣n kịp có th́ giờ chữa thương bệnh binh. Tôi đă ớn lạnh nghe quả pháo vút qua đầu và rơi cách chỉ hơn trăm thước mà vẫn phải dặn ḍ y tá b́nh tĩnh. Lúc cảm thấy bất lực nh́n tủ thuốc trống rỗng với vài viên thuốc chữa cảm cúm vớ vẩn, không c̣n trụ sinh trong khi bệnh nhân đợi la liệt với những vết thương không cần phải đợi lúc thay băng cũng đă ngửi thấy mùi nhiễm trùng. C̣n nỗi bàng hoàng, khi thấy lính phải bỏ tiền túi ra mua đạn. Chuyện khó tin nhưng có thật! Trận chiến như đă được xếp đặt đến lúc tàn. QLVNCH chưa mỏi mệt, nhưng đồng minh Hoa Kỳ đă mỏi mệt, muốn "bỏ rơi" miền Nam. Quân miền Nam không c̣n đủ súng ống, đạn dược trong khi Bộ đội miền Bắc lại đầy T54, B41, AK47...v́ Nga và Trung Cộng vẫn chưa bỏ cuộc.
Khóa 21 Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch,
những ngôi sao sáng, những niềm hy vọng mới của đất nước, của tổ
quốc ra trường đúng những ngày tháng sửa soạn cho thất trận. Chiến
tranh h́nh như bùng nổ lớn khắp nơi trên khắp bốn vùng chiến thuật
I, II, III và IV. Tháng Ba 1975 các Tân Trung Úy Quân Y Nha Dược Sĩ
chân ướt chân ráo ra chiến trường, t́m đơn vị, là lúc hầu như cả một
đạo quân Việt Nam Cộng Ḥa một triệu người đang giao tranh, tan ră,
bắt đầu di tản ngược lại hướng của ḿnh. Bao nhiêu bạn cùng khóa bị
bắt làm tù binh. 8 Quân Y Sĩ mới của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ra
thay thế đàn anh ở những tiểu đoàn chiến đấu, 5 người bị bắt khi
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh bỏ ngỏ Huế. C̣n nhiều người v́
hỗn độn chưa kịp t́m thấy đơn vị mới đă chết trận.
Ngày 10 tháng Ba 1975 Ban Mê Thuột bị tấn công.
Chỉ 3 ngày sau Tổng Thống Thiệu đă ra lệnh cho Thiếu Tướng Tư Lệnh Vùng II Quân Sự Phạm Văn Phú bỏ Cao Nguyên. Đại Tá Biệt Động Quân Phạm Duy Tất được thăng Chuẩn Tướng chỉ để dẫn quân dân triệt thoái theo Liên Tỉnh Lộ 7, con đường lâu ngày không dùng trở thành "một con đường máu", đúng nghĩa chữ "máu". Tại "Con Đường Tử Thần" này, Y Sĩ Trung Úy Biệt Động Quân Đoàn Trung Bửu, QYHD khóa 21 của chúng tôi, đă chết khi cố vượt qua một con sông trong chuyến di tản. Cũng trong lúc di tản của Quân Đoàn II, Y Sĩ Trung Úy Bộ Binh Thái Văn Châu, khóa QYHD 21 của chúng tôi, bị bắn chết ở biển Quy Nhơn khi cố bơi từ băi biển ra tàu Hải Quân.
Những đàn anh Quân Y hy sinh trước
kia như Đỗ Vinh, Trương Bá Hân, Trần Ngọc Minh, Lê Hữu Sanh, Bửu
Trí, Đoàn Mạch Hoạch... đều được vinh danh là anh hùng. Tên của các
Quân Y sĩ là tên những Quân Y Viện trên khắp các vùng chiến thuật.
Ai biết đến, ai nhắc đến Đoàn Trung Bửu, Thái Văn Châu... ? Lúc
chôn, nếu có t́m được xác chắc cũng không được phủ mảnh cờ vàng ba
sọc đỏ.
Đoàn Trung Bửu (trích từ Kỷ Yếu Y Khoa Sài G̣n 1967-1974)
Thái Văn Châu (trích từ Kỷ Yếu Y Khoa Sài G̣n 1967-1974)
Ngày 14 tháng Ba 1975, tôi ra đơn vị.
Ngày 19 tháng Ba 1975, Quảng Trị bị tấn công.
Ngày 20 tháng Ba 1975 , Quảng Trị bỏ ngỏ.
Ngày 23 tháng Ba 1975, Tổng Thống Thiệu ra lệnh Trung Tướng Tư Lệnh
Vùng I Chiến Thuật, Ngô Quang Trưởng, bỏ Huế. Tin đồn lúc đó là sẽ
có chia cắt đất nước, nhượng cho miền Bắc từ đèo Hải Vân trở ra.
Một buổi chiều nắng héo hắt, tôi đến một quán bên đường ở Quốc Lộ 1, gần đèo Hải Vân, ngồi uống bia t́nh cờ nghe ông chủ quán nói chuyện với vợ là dân và lính chạy từ phía Bắc vượt đèo chạy về hướng Đà Nẵng. Tôi ra khỏi quán, đứng bên đường lặng nh́n lên đèo Hải Vân, những đoàn xe nhà binh chở những quân lính trong đó có lính của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Biệt Động Quân và Thủy Quân Lục Chiến... từ Huế vượt đèo chạy qua. Tôi nghĩ nhiều đến Nguyễn Tiến Dũng và Vũ Đức Giang, hai bạn thân nhất của tôi vừa ra tŕnh diện hai Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và thầm tự hỏi không biết hai đứa đó có c̣n sống hay không và đang ở đâu? Chu Kỳ Đức, Nguyễn Đ́nh Ngọc, Nguyễn Đỗ Quan... ra Sư Đoàn I Bộ Binh không biết đang làm ǵ? C̣n bao nhiêu bạn cùng khóa khác đang hay vừa đến đơn vị, chả biết đường lối ǵ cả, không biết t́nh trạng ra sao?... Đứng từ chiều đến lúc xẩm tối, nh́n lên đèo Hải Vân giờ này đă biến thành một chuỗi sáng trên trời cao v́ ánh sáng của những ngọn đèn của đoàn xe nối tiếp nhau tưởng như không bao giờ hết. Nh́n đoàn xe tôi chỉ mong ước sao cho các bạn ḿnh Giang, Dũng, Đức, Ngọc, Quan... cũng có ở trên những xe đó.
Những ngày sau đó Đà Nẵng hỗn độn v́ những tin đồn. Dân chúng bắt đầu được di tản bằng máy bay. Những chuyến máy bay ở phi trường làm náo động những người c̣n lại. Những chuyện người tranh nhau, giành giật để có chỗ thoát, người chết khi bám vào bánh xe khi máy bay đang cất cánh, đều là những chuyện thật.
Ngày 29 tháng Ba 1975, Đà Nẵng chưa đánh đă di tản! Từ Quế Sơn tôi chạy về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3. Không thấy bóng một ông Sĩ Quan nào nữa. Chỉ c̣n vài người lính đang nhặt nhạnh vài đồ đạc lẩm cẩm. Họ ngạc nhiên khi thấy tôi hăy c̣n lảng vảng và ngơ ngác. Gọi Tổng Y Viện Duy Tân có th́ biết mọi người đă di tản từ ngày hôm trước. Tôi cũng không biết làm sao có phương tiện ra Đà Nẵng, không lẽ lại chạy bộ nữa? Chuyện th́ dài ḍng, nhưng vắn tắt tôi may gặp Lê Văn Thu, bác sĩ QYHD 20, ra trường trên tôi một lớp, lái xe gắn máy Honda chạy ra. Thu chở tôi ngược lại vào trong trại lúc này đă gần như trống không, lấy cái xe Bridgestone, một xe gắn máy cũ khác của anh đưa cho tôi chạy. Vào Đà Nẵng, nhớ đến anh ruột của Nguyễn Tiến Dũng là Nha Sĩ Thiếu Tá Nguyễn Nhật Thăng, tôi ghé pḥng mạch Nha Khoa của anh ở dưới phố để rủ anh chạy ra bến tàu, th́ anh Thăng đă đi rồi, nhưng thật bất ngờ gặp Nguyễn Tiến Dũng, vừa thoát được đến Đà Nẵng cũng ghé t́m anh ruột. Ôm nhau mừng chảy nước mắt. Hỏi thăm ngay về Vũ Đức Giang. Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến của Giang đă hoán chuyển chỗ với tiểu đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến của Tiến Dũng. Nguyễn Tiến Dũng về gần Huế do đó chạy được đến Đà Nẵng. Giang như vậy đă ở Quảng Trị.
Đúng là số trời đă định, nếu Dũng và Giang không đổi chỗ th́ có lẽ lúc đó tôi không gặp Dũng. Không Dũng th́ Giang. Không Giang th́ Dũng. Cả hai đều là bạn thân thiết của tôi. Vậy thôi!
Tôi và Tiến Dũng may mắn không tưởng tượng, như có phép lạ giúp, thoát về được đến Cam Ranh. Nước biển Cam Ranh vẫn trong xanh mát rượi, băi cát vẫn trắng mịn với những con dă tràng xe cát, nhưng thành phố đă hỗn loạn. Toàn là người với quân phục và xe nhà binh, lác đác tiếng súng. Không được thêm tin tức ǵ của Giang. Những đơn vị quân đội chạy từ hướng Bắc xuống đang tái phối trí, rồi chỉ để sửa soạn di chuyển sâu thêm về hướng Nam! Các đoàn quân theo nhau rút lui. Màu đỏ của máu lan dần trên bản đồ h́nh chữ S từ Bắc xuống Nam. Các thành phố Cam Ranh, Nha Trang... rồi cũng tự nhiên bỏ ngỏ để bộ đội miền Bắc dễ dàng vào chiếm đóng. Triệt thoái và di tản nhanh đến nỗi có khi quân miền Bắc vài ngày sau mới đến kịp để tiếp thu. Chính họ cũng phải ngạc nhiên! Thật là kỳ lạ.
1 tháng Tư: mất Nha Trang và Quy Nhơn.
Tôi không hiểu ǵ cả! Chỉ biết chạy, rồi chạy, xong rồi lại chạy..., tuy đầu óc thỉnh thoảng lại nghĩ đến Vũ Đức Giang người bạn thân, hiền lành. Tôi theo Nguyễn Tiến Dũng lên một tàu Hải Quân từ Cam Ranh di tản về Vũng Tàu. Trên chiếc tàu Hải Quân đó, cả Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Thiếu Tướng Tư Lệnh Bùi Thế Lân, và quân lính chắc chỉ c̣n non một ngàn người. Nguyễn Bá Linh bạn cùng khóa QYHD 21 cũng vừa ra đơn vị, quần áo nhàu nát cũng ở trên tàu, kể chuyện rằng, trong cuộc triệt thoái hỗn loạn ở Thuận An, phải bơi ra biển đến tàu để t́m đường thoát. Tôi cố t́m Vũ Đức Giang mà không thấy. Khi hỏi thăm thêm mọi người cả người tôi lạnh cứng, khi biết tin Giang bị kẹt và bị bắt ở băi biển Thuận An. Nắng vàng trong sáng, biển xanh biếc bỗng nhạt nḥa. Chúng tôi thoát khỏi Cam Ranh ngày trước th́ ngày sau được tin thành phố di tản:
3 tháng Tư: mất Cam Ranh.
Rồi tàu hải quân cũng đưa chúng tôi cũng về đến Vũng Tàu b́nh yên và tôi t́m lại được tàn quân của Sư Đoàn 3 Bộ Binh đang tái phối trí ở trại Vạn Kiếp được vài ngày. Vào tŕnh diện Tiểu Đoàn 3 Quân Y, tôi không gặp một sĩ quan nào cả. Ám ảnh bởi h́nh ảnh tù tội, chết chóc của bạn bè, đầu óc trống rỗng, mỏi mệt chán chường và cũng chả biết làm ǵ ở đó nữa, tôi trở về lại Sài G̣n. Tôi gặp lại Trương Văn Như với quân phục nhảy dù mới, đang sửa soạn theo đơn vị ra trận chiến Khánh Dương. Đến lúc này vẫn nhiều người tin tưởng sẽ có hiệp định chia cắt lănh thổ từ khoảng giữa miền Trung trở vào th́ sẽ được là vùng tự do, không cộng sản.
Sài G̣n lên cơn sốt, Sài G̣n hoảng hốt, khi một số dân đă bắt đầu được Mỹ di tản bằng máy bay sang đảo Guam. Tin đồn sẽ có đảo chánh tạo niềm hy vọng cuối cùng khi Cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đang ra thị sát mặt trận và tuyên bố sẽ ở lại chiến đấu đến cùng.
Ngày 20 tháng Tư 1975, sau chiến thắng oai hùng ở Xuân Lộc, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và Sư Đoàn 18 Bộ Binh phải triệt thoái.
Ngày 21 tháng Tư 1975 Tổng Thống Thiệu từ chức và khẳng định với quốc dân và chiến hữu trên Truyền H́nh Việt Nam là sẽ trở lại với Quân Đội để chiến đấu. Ông trao quyền lại cho Phó Tổng Thống già yếu Trần Văn Hương và đêm 25 tháng Tư, ông Thiệu đă ở Đài Loan!
Thiếu Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ sau cũng bay mất trên trực thăng cùng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng! Ông Nguyễn Cao Kỳ đă từng nói “Tôi sẽ biến Sài G̣n trở thành một Leningrad thứ hai”. Leningrad là trận chiến nổi tiếng của Hồng quân Liên Xô trước quân phát xít Đức, kéo dài gần trên dưới 1000 ngày đêm, bắt đầu từ tháng Bảy 1941.
Các vị Tướng như Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ... không có những lời tuyên bố lớn lao như vậy đă ở lại tuẫn tiết. Đó là những Tướng anh hùng liệt quốc, "những Hoàng Diệu của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa".
Ngày 28 tháng Tư 1975 Cụ Trần Văn Hương nhượng vị Tổng Thống cho Đại Tướng Dương Văn Minh, tưởng sẽ làm vừa ḷng Bắc Quân, nhưng t́nh thế đă tuyệt vọng hoàn toàn.
Ngày 30 tháng Tư 1975, Tân Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Từ bến tàu Bạch Đằng, trong đêm tối, tôi may lên được và theo tàu Hải Quân HQ1, những phút cuối cùng trước khi tàu rời bến. Như ở một giấc mộng hăi hùng, trong cơn hỗn loạn, tôi di tản khỏi Sài G̣n, thành phố thân yêu của tuổi trẻ thế hệ chúng tôi, đang "hấp hối".
Những người bạn khác cũng may mắn và sau tôi gặp lại được là Nguyễn Tài Mai, Bạch Thế Thức, Nguyễn Tiến Dũng... Biết bao bạn cùng khóa Quân Y Hiện Dịch 21 chúng tôi không may như vậy phải ở lại cực khổ thể xác và tinh thần trong các trại cải tạo, đó là số phận của Trần Trung Ḥa, Trương Văn Như, Chu Kỳ Đức, Nguyễn Phan Khuê,Trương Ngọc Hiền, Nguyễn Đăng Cung, Nguyễn Chí Vỹ, Nguyễn Văn Quốc... Có những người sau đó chết mất xác, ở biển khơi, khi vượt biên như Nguyễn Trọng Nghĩa, Nguyễn Xuân Thiều...
Qua đến nước Mỹ, khá lâu tôi bặt tin,
đến măi về sau mới " gặp" lại Vũ Đức Giang qua những chi tiết đọc
được trong sách báo và một vài lần ở trong giấc mơ.
Trong quyển "Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975" do Phạm
Huấn viết, chương 15 là những trang sách về "Những Y Sĩ Tiền Tuyến".
Vào những giờ phút cuối cùng khi Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến
đang triệt thoái một cách tuyệt vọng tại băi biển Thuận An:
"... Bác Sĩ Vũ Đức Giang, Y Sĩ
Trưởng Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến dù đă lên chiếc LMC đầu tiên,
sáng ngày 26-3-1975 cùng với các thương binh, nhưng v́ danh dự của
một cấp chỉ huy, anh lại trở xuống..."
Cao Xuân Huy, trong quyển sách lừng danh "Tháng Ba Găy Súng". Quyển
sách của những khôi hài đen đầy máu, nước mắt, tàn bạo, căm
hờn...nói về cuộc triệt thoái của Thủy Quân Lục Chiến. Đây là đoạn
tác giả đă bị bắt làm tù binh ở băi biển Thuận An:
"...Ngày 26 tháng 3 là ngày cả một Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến bị
khoảng một đại đội du kích Việt Cộng bắt sống. Chuyện không bao giờ
tin được đă xảy ra...
...Tôi c̣n gặp lại cả một thằng bạn cũ, cùng học với nhau hết bậc
trung học ở trường Nguyễn Trăi, khi chúng tôi đang bị trói chung
bằng một sợi dây điện dài. Vũ Đức Giang. Tôi ngạc nhiên kêu lên:
- Giang, mày làm ǵ mà cũng bị bắt ở đây?
- Ơ Huy, cả chục năm mới gặp lại mày.
- Tao hỏi mày làm cái giống ǵ mà cũng bị bắt ở đây?
- Tao Thủy Quân Lục Chiến.
- Mẹ kiếp, cậu đếch tin, mày cũng dám giết người à. Mà sao ở Thủy
Quân Lục Chiến tao không gặp mày.
- Tao mới ra trường về Thủy Quân Lục Chiến khoảng nửa tháng nay.
- Mày bác sĩ hở?
- Ừ, tao về tiểu đoàn 7..."
BS TQLC Phạm Vũ Bằng viết trong bài "Thủy Quân Lục Chiến-Binh Chủng Kiêu Hùng":
"...Theo các Quân Y tá LĐ 147 cho
biết th́ Bác Sĩ Vũ Đức Giang và vài quân y tá TĐ 7 khiêng thương
binh lên tàu sau đó anh điểm danh y tá TĐ 7 rồi tất cả cùng trở
xuống để tiếp tục cùng đồng đội chiến đấu.
Khi tôi thay BS Rậu làm Đại Đội Trưởng Quân Y LĐ 147 th́ một hôm Hạ
Sĩ Nhất Quân Y Nguyễn Văn Được - người sống sót từ “Pháp Trường Cát
Thuận An”- hỏi tôi:
-Ông thầy có biết BS Vũ Đức Giang TĐ 7 không?
-Biết. Mà có chuyện ǵ?
-Ổng ngon quá! Ngày 26/3/1975 ổng và mấy đệ tử khiêng thương binh
lên tàu. Xong việc ổng điểm danh từng y tá TĐ 7 một rồi tất cả xuống
tàu lên bờ về lại TĐ. Em giữ ổng lại nói “BS trở lại th́ 100/100 là
chết” nhưng ổng trừng mắt la em “chú mày đừng xúi bậy, TĐ đang chiến
đấu sẽ có thêm thương b́nh, anh bỏ đi sao đành” . Xong rồi ổng xuống
tàu đi dưới làn mưa đạn thượng liên của VC, em nh́n mà thấy ớn. Em
nói thiệt t́nh đó ông thầy.
-Th́ tao có nói mày không thiệt t́nh hồi nào đâu! Có điều chú mày
bậy thật, Bác Sĩ TQLC không bao giờ đào ngũ trước hàng quân!..."
Và cũng trong "Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975" của Phạm Huấn, về Vũ Đức Giang:
"...Cuối năm 1976, lại một lần nữa, muốn bảo vệ danh dự của một Quân Y Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, anh đă tự tử chết trong trại tù ở phi trường Ái Tử, ngoài Đông Hà, Quảng Trị..."
Cuối cùng bài "Khóc Bạn" của bác sĩ quân y Hoàng Thế Định, trên Tập San Y Sĩ Việt Nam tại Canada số 112, trang 119, viết về giây phút cuối cùng của Vũ Đức Giang năm 1976 tại trại tù cải tạo Ái Tử:
"...Buổi cơm chiều, Giang cáo bệnh
không ăn. Gần cuối lán, ḷ ṃ tối, anh nằm trùm kín, im lặng...anh
nằm trùm chăn im lặng. Anh em vẫn nghĩ là Giang bệnh, để yên anh
ngủ. Khoảng một giờ sau, mọi người nghe Giang vùng mạnh mấy cái
trong chăn rồi "ự, ự" lên mấy tiếng. Dược sĩ Thuận, người vẫn thường
nằm cạnh Giang, vụt đứng dậy, chạy lại giật tung chăn trên người
bạn... Mọi người xúm lại. Toàn thân Giang rung lên, co quắp tay chân
rồi từ từ duỗi ra, bất động...
...Nguyễn Đ́nh Ái, Y sĩ trung úy trưng tập, cùng đơn vị với tôi. BS
Ái giật chiếc ống nghe trên đầu nằm của Tôn Thất Thắng, Y tá trại 3.
Ái vừa nghe tim vừa t́m mạch ở cườm tay bạn. Không c̣n nhịp tim
mạch...
...Trong khi chờ đợi y tá Tôn Thất Mừng sửa soạn adrénaline, BS Ái
bảo DS Thuận xoa bóp lồng ngực Giang, c̣n ḿnh th́ dùng phương pháp
bouche à bouche, thổi hơi cho bạn. BS Ái chích Adrénaline trực tiếp
vào cơ tim Giang và cùng DS Thuận tiếp tục làm cấp cứu hồi sinh
Dù biết rằng nếu có hiệu quả th́ trong vài phút, nhưng Ái và Thuận
vẫn cố cứu bạn suốt nửa giờ. Vô vọng, hai người quỳ gối bên xác
bạn...
...Tôi tin tài của BS Ái, biết chẳng c̣n ǵ cứu văn được nữa, nhưng
vẫn đến ngồi bên Giang, lật chăn để nh́n bạn lần cuối. Tôi quan sát
thấy đồng tử của người bạn xấu số đă hoàn toàn nở rộng.Thật hết rồi!
Tôi ghé sát miệng Giang và ngửi mùi hăng hắc đặc biệt ở những người
tự tử bằng Chloroquine..."
Năm 1976, Y Sĩ Trung Úy Hiện Dịch Thủy Quân Lục Chiến Vũ Đức Giang
qua đời, "hưởng dương" 28 tuổi.
Tôi nhớ Vũ Đức Giang. Tôi nghĩ đến hai em của Giang. Tôi nghĩ đến Mai, người vợ chưa cưới của Giang. Tôi nghĩ nhiều đến mẹ của Giang...
Tôi nhớ nụ cười hiền ḥa của Giang.
Tiếng hát Ngọc Long từ đâu đó vọng về:
"...Chiều mơ anh cầm đàn về Trường Sơn bát ngát, ngắm mây bay miệt mài tiếng hát...".
Vũ Đức Giang đă về với rặng Trường Sơn bát ngát, về với Hoàng Liên Sơn hùng vĩ.
Vũ Đức Giang đă ở lại với sông Hồng
cuồn cuộn sóng đỏ và ở măi với ḍng Cửu Long xanh mát, mênh mông...
Phạm Anh Dũng
San Diego, California, USA
(viết xong tháng Ba 2025 để kỷ niệm 50 Năm Quốc Hận, Tháng Tư Đen
1975)
Đinh Quang Anh Thái | Y sĩ tiền tuyến
VŨ ĐỨC GIANG: Danh Dự và Trách Nhiệm
https://www.youtube.com/watch?v=kvf3obsRlWc&t=1182s
Hỏi ngă
chánh tả tự vị
Cách sử dụng "I"
và"Y"...
Cải cách tiếng Việt
Dấu "hỏi
& ngă" trong
tiếng Việt
Luật dấu hỏi & ngă
Gạch nối trong
tiếng Việt
Xưng hô tiếng
Việt...
Các cấp chỉ huy và đồng đội TQLC
Lạng
Sơn Thiếu Tướng Bùi Thế Lân
Tango
Đại Tá Nguyễn Thành Trí
Sài G̣n Đại Tá Tôn Thất Soạn
Tàn cơn binh lửa
Vũ Đức Giang
Hành quân triệt thoái
Những Niên
Trưởng đáng kính
Tháng Ba lại về
Nỗi ḷng
băn khoăn của lớp người VNCH lưu vong thế hệ thứ nhất
Năm Tị nói
chuyện Rắn
Ngậm ngùi,,,
Tiếc thương...
Chuyện t́nh buồn
Ḿnh ơi! Em
muốn...
Đây Long
Giao, Suối Máu
Người hùng
TQLC Trần Ba
Poncho
Quân Cán Chính VNCH chết trong trại tù "Cải Tạo"
Bão
Beryl và Đại Hội 2024
Đại Hội 2024:
Những tấm chân t́nh của Đại Gia Đ́nh TQLC
Người về từ
thành cổ
Đại Hội
TQLC 2024 tại Houston
Houston -
Chuyện bên lề
Thương Phế Binh, Ông
Là Ai?
Ḷng biết ơn nhân
ngày Lễ Những Người Cha 2024
Một ngày
không thể quên
Giầy Saut
trong tử địa
Những nhân
chứng sống sót của một thời thảm khốc
Tôi đi khám Bás
Sĩ
Bóng người
hay bụi sương?
Lần đầu nhập
trận
Cố Trung Tá
Nguyễn Văn Nho
Trước sau như
một!
Louisiana 2023 – Rằn
Ri gặp mặt
Môt ban nhạc lạ
đời
Những điều
ít người biết về bài hát "Kỷ vật cho em"
An Dương
Ngược ḍng
thời gian
Người lính cuối
cùng
T́m tự do
Tù cải
tạo…Những nỗi buồn khó phai
Danh sách Quân Dân Chính chết trong tu cải tạo
Đón xuân
này nhớ xuân xưa
"Tù cài
tạo" - Những nỗi vui buồn khó quên
Trở lại Cổ Thành
Những ngộ nhận về chiến tranh Việt Nam từ phía Hoa Kỳ
Gặp gỡ Chú Long
Hồ
Tango: Ngày này năm
xưa! Ngày này năm nay!
Saigon đă
tṛn năm
Ngày về
từ rừng núi Hiệp Đức
Trường
Sơn bỏ lại sau lưng
Cuộc hành tŕnh
Bên kia
bờ sông Thạch Hăn
Chung g̣ng
định phận
Kỷ niệm cổ thành Đinh Công Tráng - Quảng Trị 1972
Thiên
hùng ca dựng một ngọn cờ
Cố vấn TQLCHK trao Bronze Star cho NT Đặng Bá Đạt
Nhật Kư Cali:
Ngàn năm mây bay
Quỳ hôn đất thân
yêu
Sau 46
năm nước mắt vẫn c̣n rơi!
Chuyện mắc dịch
Vui buồn cùng
Cọp Biển
Cái ǵ
của Cesar … Cái ǵ của Thương Phế Binh …
Hỏng rồi tiếng
nước tôi !!! Phần 1 -
Phần 2
Bạn tôi,
người y tá tên Ri
Hai bà chị
Trận đánh
tháng 3/75 Quân Khu I
Thu hát cho
người
Sự
nghiệp 4 chữ, lư tưởng 2 chữ
TĐ2/TQLC Tiêu diệt chiến xa CSBV thuộc Trung Đoàn Tăng-Thiết
Giáp 202
T́nh với Nghĩa
Xuân ở nơi nào?!
Tuổi 70,
Chán mớ đời!
Họ nhà "Cu"
Con sáo bạc
má và người tù
Quân khu IX ơi. Chào mi!
Chuyện về
bức tượng TQLC
Tháng 3, kư ức
về anh
Ngày ra trại
Một buỗi chiều
xuân
Đêm xuân Đà Lạt
Nhánh mai vàng
Phục Hưng Tự