Điểm sách: Khi Đồng Minh Tháo Chạy (phần 2)

Nguyễn Kỳ Phong

Ở trang 58 KĐMTC, tác giả viết, "Tháng Năm 1968, Cyrus Vance đại diện Hoa Kỳ đến họp tại Paris để thảo luận về chi tiết những cuộc ḥa đàm về chiến tranh Việt Nam." Chi tiết này sai lạc—dù rất nhỏ—người đại diện là Averel Harriman, Cyrus Vance chỉ là phó đoàn (đọc Kissinger, Ending the Vietnam War, trang 75; Seymour Hersh, sđd, trang 17). Chương Hai là chương quan trọng, một chương cần viết kỹ để đọc giả thấy được tinh thần lừa dối và mánh khóe của Kissinger. Nhưng trong chương này, tác giả không trích tác phẩm nào mới về Kissinger, hay những hồ sơ đă được giải mật từ 20 năm qua, nói về những hành vi của Kissinger trong những năm Kissinger giữ chức cố vấn an ninh quốc gia và tổng trưởng ngoại giaọ Những tác phẩm quan trọng gần đây dựa vào tài liệu giải mật như của Larry Berman (No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger, and the Betrayal in VietNam; bản dịch Việt ngữ của Nguyễn Mạnh Hùng, Không Ḥa B́nh, Chẳng Danh Dự: Nixon, Kissinger và Sự Phản Bội Ở Việt Nam) hay Jeffrey Kimball (The Vietnam War File: Uncovering the Secret History of Nixon-Era Strategy; va,ợ Nixonơs Vietnam War); hay quan trọng hơn, quyển hồi kư của H.R. Haldeman (The Diaries of Haldeman: Inside the Nixon White House). Haldeman là tham mưu trưởng ṭa Bạch Cung của Nixon. Hồi kư của Halderman quan trọng đến độ sử gia Stephen Ẹ Ambrose nói nhiều quyển sách sử khác phải được viết lại sau khi đọc quyển nàỵ

Đọc Chương Ba, người điểm sách có câu hỏi về lối chú và xử dụng sử liệu rất đặc biệt của tác giả. Sử liệu có hai loại: primary và secondary documents (tài liệu chánh và tài liệu phụ). Hồi kư, văn kiện chính thức, lời phỏng vấn từ nhân chứng, được xếp vào loại tài liệu chánh.

Trích dẫn, nghe nói lại, hay sách biên khảo của người thứ ba, là tài liệu phu.. Hai loại tài liệu đó đều được công nhận khi dùng làm sử liệu viết sách. Nhưng, nếu tác giả đă liệt kê primary document trong thư mục, th́ tác giả phải chú từ tài liệu đó chứ không nên dùng tài liệu phu.. Thí dụ: tác giả liệt kê hồi kư của bà Chennault khi nói đến cuộc bầu cử năm 1968, nhưng lại chú theo sách của Seymour Hersh. Khi độc giả vào sách Hersh, th́ Hersh lại chú sách bà Chennault (chú thích 11, trang 38, KĐMTC). Một trường hợp khác, trang 391-392 KĐMTC; và The Palace File trang 332, tác giả tả cảnh ra đi của ông Thiệụ Thay v́ chú thẳng từ primary source là nhân viên CIA Frank Snepp, v́ anh ta là tài xế đưa ông Thiệu ra phi trường, tác giả lại chú theo lời phỏng vấn từ Polgar (người tiễn phái đoàn ông Khiêm và ông Thiệu đi), và sách của David Butler (The Fall of Saigon). Nhưng nếu độc giả t́m đọc sách của Butler, th́ tác giả này viết hoàn toàn ngược lại những ǵ tác giả KĐMTC đă viết. Ở trang 298-299 KĐMTC, tác giả trích câu nói chua xót của tướng Murray khi so sánh thế lực quân sự giữa VNCH và CSBV sau ngày ngưng bắn ... và cho chú thích 19. Chú thích 19 ở trang 680 KĐMTC cho độc giả nguồn tài liệu đến từ chính quyển The Palace File của tác giả. Và nếu độc giả c̣n kiên nhẩn t́m The Palace File (trang 358) th́ trong sách đó hướng dẫn độc giả về trang 143 của Peter Braetrup, Vietnam as History: Ten Years After the Paris Accord! Đến đây th́ câu hỏi không thể tránh được của độc giả là, tại sao tác giả không trích thẳng luôn mà lại trích ḷng ṿng khi đă liệt kê sử liệu đó trong thư mục? Thông thường, chúng ta chỉ trích tài liệu phụ khi không có tài liệu chánh; khi đă liệt kê tài liệu chánh rồi, mà lại trích tài liệu phụ th́ trái với phương pháp sử học.

Lư do người điểm sách đề cập đến vấn đề này v́ trong Chương Ba, trang 83-83, khi so sánh về t́nh h́nh quân sự của VNCH và của CSBV sau ngày ngưng bắn, tác giả chú theo tài liệu của thiếu tướng Charles Timmes. Tướng Timmes gần như là một định chế của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam. Không một sĩ quan cao cấp, thâm niên nào của quân đội VNCH mà không biết tướng Timmes. Tác giả viết, "Tướng Charles Timmes, tư lệnh đầu tiên của ỏBộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự cho Việt Namơ (Military Assistance Command, Vietnam hay MACV)." Chi tiết này hoàn toàn saị Timmes chưa bao giờ là một tư lệnh đầu tiên, và nhất là tư lệnh MACV. Tướng Timmes, ngày 1 tháng 7-1962 được cử làm tư lệnh tạm thời cho bộ tư lệnh MAAG (Military Assistance Advisory Group, Vietnam) trong khi chờ đợi bộ tư lệnh MACV thiết lập một bộ tư lệnh khác để thay vào chổ của MAAG, v́ tháng Hai năm đó, Kennedy đă cử đại tướng Paul Harkins thiết lập bộ tư lệnh MACV ở saigon rồị Trước đó, đầu tháng 9-1960, trung tướng Lionel C. McGarr sang thay trung tướng tư lệnh MAAG là Samuel T. (Hanging Sam) William ở bộ tư lệnh MAAG. Tư lệnh phó cho McGarr là thiếu tướng Timmes. Khi McGarr về nước, Timmes thay McGarr cho đến tháng 3 năm 1964 khi bộ tư lệnh MAAG bị giải nhiệm. Chi tiết này những sĩ quan đương thời như trung tá Lữ Lan, chuẩn tướng Phạm Xuân Chiểu, thiếu tá Đồng Văn Khuyên, thiếu tá Nguyễn Vĩnh Nghi, làm việc trong MAAG đều biết. Sau khi giải ngũ, Timmes được CIA dùng như một người trung gian dể dàn xếp, liên lạc với các tướng lănh Việt Nam. Tuy biết rành về quân đội và quân sự VNCH, tướng Timmes không phải là một primary source để chúng ta trích dẫn tài liệu hay chi tiết về quân sư.. Chi tiết quân sự do tướng Timmes cung cấp hoàn toàn chính xác. Nhưng những chi tiết đó đến từ hai primary sources khác là tài liệu của đại tá William Le Gro, và thiếu tướng John Murray mà tác giả đă liệt kê ở phần thư mục. Murray là chỉ huy trưởng DAO (Defense Attache Office); Le Gro là chỉ huy trưởng pḥng t́nh báo dưới quyền của Murray (đọc, William Ẹ Le Gro, Vietnam From Cease-Fire to Capitulation, trang 29. Bài viết của Timmes, mà tác giả trích lại, lấy từ tài liệu đó). Tác giả liệt kê sách của Le Gro ở thư mục nhưng tác giả đọc không kỹ. V́ nếu đọc kỹ th́ tác giả đă không viết sai về chi tiết trận đánh ở Thường Đức vào mùa Thu năm 1974. Trang 212 trong KĐMTC, tác giả viết, "Ngoài chiến trường th́ ở Vùng I, từ cuối hè, hai sư đoàn chính quy của Bắc Việt, SĐ 304 và SĐ 2, đă hoạt động ở vùng đồi núi hai quận Đức Dục và Thường Đức ... tháng 9 sư đoàn 324 lại tăng viện chiếm trọn quận Thường Đức. ... Tướng Ngô Quang Trưởng cho sư đoàn 1 với sự tăng cường của Biệt Động Quân, phản công lấy lại đất đai bị chiếm." Chi tiết này chỉ đúng phân nửạ Đúng hơn phải là: Sau khi các đơn vị Biệt Động Quân và sư đoàn 1 không áp đảo nổi các trung đoàn CSBV đang chiếm ngự các đỉnh núi cao, tướng Trưởng yêu cầu sư đoàn Nhảy Dù đến "giải quyết vấn đề!" Với tổn thất 500 chết, 2000 bị thương trong bốn tháng trời đánh nhau, lữ đoàn 1 Dù và hai tiểu đoàn khác ở lữ đoàn 2 và 3, Nhảy Dù đă triệt tiêu hai trung đoàn CSBV, chiếm lại đồi 1062 của trận Thường Đức (đọc, Le Gro, sđd, trang 117, 121-122). Trong khi đó, ở một vài đoạn tác giả chú thẳng từ sách Le Gro nhưng ghi chú là tài liệu dựa vào những phỏng vấn với tướng Murray, và độc giả sẽ ngạc nhiên về sự tương tự của lời phỏng vấn và những trang sách của Le Grọ
Trong các trang 206, 209-210 của KĐMTC, tác giả viết về chuyện Hoa Kỳ đă không giao phản lực cơ F-5E như đă hứạ Tác giả không chú một tài liệu nào về những chi tiết này, chỉ kể lại theo trị nhớ của tác giả. Tác giả "nhớ" là Hoa kỳ vẫn c̣n thiếu 75 chiếc F-5E trong ngân khoảng năm trước.

Với tất cả những tài liệu quân sự có thể t́m được về chi tiết này, độc giả thấy trí nhớ của tác giả hơi xa sự thật. Trước tháng 12-1972, không quân VNCH có tương đương 2 phi đoàn chiến đấu cơ F-5. Từ cuối năm 1972, qua hai chương tŕnh viện trợ ENHANCE và ENHACE PLUS, không quân lập ra thêm 3 phi đoàn F-5 nữa (đọc, Nguyễn Duy Hinh, Vietnamization and the Cease-Fire, trang 44-45). Trong ngân khoản quân viện của ENHANCE PLUS, Hoa Kỳ hứa cung cấp cho VNCH 3 phi đoàn F-5E, một loại F-5 mới, tối tân hơn. Tuy nhiên đến tháng 9-1974, không quân mới nhận được tổng cộng 35 chiếc F-5Ẹ Theo Robert C. Mikesh, tác giả quyển Flying Dragon: The South Vietnamese Air Force (trang 122, 138, 210, 216), đến tháng 9-1974, không quân có 5 phi đoàn F-5 với tổng cộng 131 chiến đấu cơ F-5 loại A/B/E/RF (RF-5A là loại F-5 dùng vào các phi vụ thám thính, không ảnh. Phi Đoàn 716 có vài chiếc này). Vào ngày VNCH thất thủ, không quân c̣n lại 122 F-5, trong số đó có 72 F-5A; 6 F-5B; 9 RF-5A; và 35 F-5E (con số này tương đối chính xác, v́ trong khoảng 1973-1975, 7 hay 8 chiếc F-5 bị hỏa tiển tầm nhiệt SA-2 của cộng sản bắn rơi).

Ở trang 211 trong KĐMTC, tác giả viết, nhờ tác giả thương lượng với giám đốc hăng máy bay Northrop, đến cuối năm 1974 hăng này mới gởi cho VNCH một số F-5Ẹ Thật ra, sau khi Phi Đoàn 536 được thành lập ở Biên Ḥa vào tháng 12-1972, đến tháng 6-1974 th́ phi đoàn này đă nhận được những chiếc F-5E đầu tiên rồị Ở trang 210 tác giả viết ông chủ hăng máy bay Northrop nói, "Cả Đài Loan và Iran đều xin F-5Ẹ Họ có thể được ưu tiên hơn Việt Nam Cộng Ḥạ" Chuyện này khác với những ǵ trong sách nói: ngay trong cuốn sách tác giả liệt kê và chú thích, tác giả Le Gro ghi lại tờ tường tŕnh của tướng Murray là Hoa Kỳ không thay thế những chiếc F-5 hư và phế thải được v́ họ c̣n phải trả lại hai quốc gia này những chiếc F-5 họ đă mượn trước để cung cấp cho VNCH trong kế hoạch viện trợ ENHANCE năm 1972 (đọc, Le Gro, sđd, trang 81; Mikesh, sđd, trang 123-124).

Ở Chương Mười Một, tác giả nói nhiều về tổng trưởng quốc pḥng James Schlesinger. Schlesinger, cũng như Warren Nutter, là thầy cũ của tác giả khi họ c̣n dạy ở University of Vrginiạ Sau khi tác giả nói tới lui sự thiếu hiểu biết của Schlesinger về những biến chuyển quân sự quan trọng vào những ngày cuối của VNCH, ở trang 287, tác giả chú một lời tuyên bố lịch sử của Schlesinger trên đài truyền h́nh toàn quốc vào ngày 6 tháng 4-1975. Lời tuyên bố đại khái là t́nh h́nh quân sự VNCH vẫn không có ǵ nguy hiểm lắm; cộng sản có đánh, nhưng chỉ là một ngoại lệ nhỏ. Khi Schlesinger tuyên bố những câu đó th́ CSBV đă chiếm Phước Long và Ban Mê Thuột; Quảng Trị, Huế và Đà Nẵng đă bỏ ngỏ; và Binh Đoàn Duyên Hải của Lê Trọng Tấn đang trên đường tiến về Phan Rang, Phan Thiết, Vũng Tàu và Xuân Lộc. Nhưng đến trang 287, tác giả lại viết là, ngày 7 tháng 4, sau khi người bạn của tác giả là Von Marbod cho Schlesinger coi những bức thư trao đổi giữa Nixon và tổng thống Thiệu, th́ Schlesinger "giác ngộ," (trong nghĩa ông tổng trưởng quốc pḥng nhờ đọc những ǵ tác giả gởi th́ mới hiểu được hoàn cảnh và t́nh h́nh Việt Nam lúc đó). Ở trang 298 kế tiếp, tác giả viết thêm về Schlesinger, "Ngày tôi ra sách, cuốn The Palace File, ông Schlesinger đă có mặt. Đứng cạnh bên một người bạn của tôi là anh Chu Xuân Viên, cựu tùy viên Lục Quân [sic] VNCH, Washington, ông phàn nàn: ỏGía như tôi có những tài liệu này năm 1973 th́ chắc t́nh h́nh viện trợ đă khác rồị" Đọc đoạn này độc giả không khỏi xúc động về tấm ḷng của ông tổng trưởng đối với Việt Nam, và cũng thấÔy hănh diện về ḷng tự tin của ông tổng trưởng.

Nhưng những độc giả quen thuộc về sử liệu và về các nhân vật chính trị ở Hoa Thịnh Đốn th́ đều biết Schlesinger là một người chống lại Việt Nam và sẽ là người cuối cùng "giác ngộ" về t́nh h́nh Việt Nam—nếu ông ta có ḷng giác ngô.. Tham gia chính phủ từ khi Nixon nhậm chức vào năm 1969 với chức vụ giám đốc Pḥng Ngân Sách lo về quân quỹ. Năm 1971 Nixon bổ nhiệm Schlesinger làm chủ tiỳch Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử. Tháng 2-1973 Nixon dời Schlesinger về CIA để Schlessinger thanh toán những nhân viên đă không "hợp tác" với Nixon trong vụ Watergate (chúng ta c̣n nhớ, khi cảnh sát địa phương và FBI đang điều tra các thủ phạm bị bắt ở Watergate, Nixon muốn CIA nhảy vào can thiệp bằng cách nói (dối) với FBI những thủ phạm đó đang hoạt động một điệp vụ cho CIẠ CIA từ chối tham dự và giám đốc Richard Helms bị Nixon giải nhiệm). Với tánh t́nh kiêu ngạo, tư cách tự tôn và quan liêu, Schlesinger là giám đốc đáng ghét nhất trong 25 năm lịch sử của CIẠ Làm giám đốc chưa đầy năm tháng, Nixon phải đưa Schlesinger về bộ quốc pḥng v́ tư cách ông bị quá nhiều chỉ trích (đọc, John Ranelagh, The Rise and Fall of the CIA: From Wild Bill Donovan to William Casey, trang 546-548). Khi về bộ quốc pḥng, Schlesinger cũng không được mọi người yêu mến. Cũng như tác giả đă tả đúng về thái độ của Schlesinger trong trận chiến Yom Kippur giũa khối Ả Rập và Do Thái năm 1967: lừng khừng và kháng cự lại những đề nghị của tổng thống Nixon và ngoại trưởng Kissinger.

Theo hồi kư của đại tướng Alexander Haig (người đề nghị Nixon đem Schlessinger từ CIA về Pentagon, lúc Haig là tham mưu trưởng ṭa Bạch Ốc), Inner Circle: How America Change the World, khi thấy Kissinger và Schlesinger căi nhau qua lại về kế hoạch tiếp viện cho Do Thái, Nixon gọi hai người vào và xài sể cho một trận và có vẻ không thích Schlesinger từ đó; cũng theo Haig, Nixon dùng nhưng không bao giờ coi Schlesinger quan tro.ng. Trong bảy năm Nixon làm tổng thống, trừ những lần hội họp v́ chức vụ, Schlessinger chỉ được mời vào ṭa Bạch Ốc một lần, và lần đó chỉ để gặp Haldeman chứ không phải gặp Nixon. Khi Nixon từ chức, Ford lên thay, liên hệ giữa Schlesinger và tổng thống Ford đă gặp khó khăn ngay từ đầụ Sau vài lần lời qua tiếng lại, hơn một năm sau, Ford giải nhiệm Schlesinger (đọc, Haig, sđd, trang 411-412; 429-430).

Chúng ta có nhiều sử liệu để chứng minh câu nói của Schlesinger trước mặt trung tá Chu Xuân Viên và tác giả Nguyễn Tiến Hưng là một câu nói làm vui và an ủi người ba.n/ho.c tṛ cũ, hơn là nói thật, hay cho thấy Schlesinger có khả năng thay đổi t́nh thế như ông nóị Chúng ta đă đoán được Kissinger và Ford coi Schlesinger quan trọng như thế nào khi họ không cho Schlesinger tham dự những buổi họp về chuyện Việt Nam trong hai tháng cuối cùng.
Schlesinger không được mời tham dự trong buổi họp ngày 25 tháng 3 khi Ford gởi đại tướng Weyand sang Việt Nam để thẩm định t́nh h́nh. Ngày trở về, Kissinger ra lệnh cho Weyand tường tŕnh riêng (bằng miệng) cho Kissinger và Ford ở Palm Springs, California (mà tác giả hai lần viết là ở Nevadạ Ford thích đánh golf, nên khi nghĩ là bay về Palm Springs, California, v́ ở đó có nhiều sân golf nổi tiếng) trước khi Weyand bay về Washington. Về đến Washington, Weyand gởi tờ tường tŕnh đầy đủ cho Ford, và chỉ gởi bản sao cho Schlesinger chứ không gặp trực tiếp Schlesinger như Kissinger đă ra lệnh (đọc, Frank Snepp, Decent Interval, trang 235, 238, 308). Weyand biết Kissinger và Ford không thích Schlesinger, dù dưới quyền của Schlesinger nhưng ông phải hành xử như vậy v́ không c̣n chọn lựa nào hơn.

Kissinger và Ford có lư do để đối xử với Schlesinger như vậỵ Schlesinger là người phá hoại VNCH hơn là giúp đỡ. Nh́n lại thái độ của Schlesinger từ lúc lên làm tổng trưởng, tất cả những ǵ ông làm đều đi ngược lại quyền lợi cho quân miền Nam. Theo sử liệu chánh thức của bộ quốc pḥng về lịch sử của các tổng trưởng quốc pḥng Hoa Kỳ, Schlesinger tuyên bố ông sẽ tră đũa CSBV nếu họ vi phạm hiệp định Paris 1973, khi ông trả lời các câu hỏi của Ủy Ban Quốc Pḥng lúc được đề cử vào chức vu.. (theo Bộ Quốc Pḥng, trong http://www.defenselink.mil/specials/secdef_histories/bios/schlesinger.htm). Những có lẽ, đó chỉ là một lời tuyên bố để cho kư giả có chuyện đăng lên báọ Ngày 7 tháng 1-1975, sau khi CSBV chiếm Phước Long, Kissinger và hội đồng an ninh quốc gia muốn cảnh cáo CSBV là đừng đi quá xa với những vi phạm, v́ợ quân đội Hoa Kỳ vẫn c̣n hiện diện. Với sự đồng ư của Ford, Kissinger đề bộ quốc pḥng tuyên bố một hạm đội Hoa Kỳ, vừa rời căn cứ hải quân Subic Bay ở Phi Luật Tân, sẽ có mặt ở Vịnh Bắc Việt và ngoài khơi hải phận Việt Nam để canh chừng những hoạt động của CSBV. Nhưng v́ một lư do nào đó, hải quân không nhận được lệnh này từ Schlesinger và đă băng qua eo biển Malacca trên đường về Ấn Độ Dương. Theo Snepp, Kissinger đă cuồng nộ v́ sự lơ đễnh chết người này của Schlesinger (đọc, Snepp, sđd, trang 142-143; Kissinger, 16 năm sau, cũng viết lại vụ này trong Ending the Vietnam War, trang 506-507).

Chính Schlesinger đă phản đối số tiền quân viện 722 triệu theo lời đề nghị của phái đoàn Weyand. Chính Schlesinger là người nằn nặc tuyên bố VNCH chỉ cần 322 triệu là đủ; nhiều hơn chỉ thừa và phí tiền v́ miền Nam đă thất trận rồị Thái độ và ư nghĩ của Schlesinger đi ngược lại đướng lối của Ford và Kissinger đến độ Ford ra lệnh Schlesinger phải công khai lên tiếng ủng hộ ngân khoản viện trợ cho VNCH dù Schlesinger thích hay không (Snepp, sđd, trang 308).

Một ngày trước khi tổng thống Ford ra quốc hội xin 722 triệu, Ford nói trước mặt Schlesinger trong pḥng họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, "Tôi sẽ xin [quốc hội] 722 triệu v́ chúng ta có lư do chánh đáng cho món tiền đó. ... Jim [Schlesinger], tôi đoán tổng trưởng đă có nhiều do dự về chuyện nàỵ Nhưng đây là quyết đi.nh." (Kissinger, sđd, trang 538).

Tác giả nói Schlesinger chỉ tỉnh ngộ sau khi đọc những ǵ được trao qua tay Von Marbod. Chuyện này vô lư trước những bằng chứng chúng ta có: Ngày 5 tháng 4, Schlessinger đă đọc tường tŕnh về Việt Nam của tướng Weyand rồị Trong bản báo cáo đề ngày 5 tháng 4, một phụ tá trong hội đồng an ninh quốc gia thông báo cho tướng Brent Scowcroft (phó cố vấn an ninh quốc gia; 15-11-1975, thay Kissinger làm cố vấn cho Ford) là Schlesinger đă nhận một bản sao phúc tŕnh của Weyand rồị Dĩ nhiên Schlesinger phải đọc, v́ chuyến đi của phái đoàn Weyand được báo chí lên tiếng rầm rộ, và mặc dù là tổng trưởng quốc pḥng nhưng ông không được mời tham dự hay cho ư kiến (độc giả muốn thấy bản sao của tờ tường tŕnh này, và nhiều hồ sơ giải mật từ thư viện tổng thống Ford mà tác giả lấy ra để trích trong KĐMTC, xin vào website http://www.ford.utexas.edu/library/exhibits/vietnam/750405a.htm. Trong đó cũng có chi tiết về ngày tháng đại sứ Martin bị mất những tài liệu mật, khác với ngày tháng tác giả ghi ở trang 351 KĐMTC). Biết t́nh h́nh Việt Nam nguy ngập như vậy nhưng Schlesinger, với tư cách tổng trưởng quốc pḥng, vẫn tuyên bố "mặt trận Miền Nam vẫn yên tỉnh."

Làm sao Schlesinger không biết được t́nh h́nh đang nguy ngập ở Việt Nam, khi ngày 27 tháng 3-1975, CIA đă trao cho Schlesinger bản phúc tŕnh Phỏng Định Đặc Biệt T́nh Báo Quốc Gia (Special National Intelligence Estimate) về Việt Nam (tài liệu này được lư trữ ở website http://www.cia.gov/nic; hay trong, Estimate Products on Vietnam: 1948-1975, trang 647-650) Theo Frank Snepp (Decent Interval, trang 135), chính lời tuyên bố của Schlesinger ngày 6 tháng 4 trên truyền h́nh đă làm cho CSBV phấn khởi và bạo dạn hơn trong kế hoạch tấn công của ho.. Họ đă đánh chiếm hơn phân nửa miền Nam, mà ông tổng trưởng quốc pḥng Mỹ vẫn tuyên bố trước công chúng là "chưa có ǵ xảy ra, quân đội VNCH chỉ suy sụp một chút thôi ..." Văn Tiến Dũng suy luận trong hồi kư, nếu các thẩm quyền Mỹ nghĩ như Schlesinger th́ CSBV không có ǵ phải sợ (sợ Hoa Kỳ can thiệp và trả đũa).

Cùng chương, trang 288, tác giả viết, sau khi Schlesinger đọc xong những lá thư mật, ông liền t́m đưa cho nghị sĩ Jackson để ... cầu cứụ Nhưng nhờ Henry "Scoop" Jackson cứu Việt Nam cũng giống như nhờ anh chàng Sở Khanh đi cứu nàng Kiều!

Theo đại sứ Bùi Diễm, nghị sĩ đảng dân chủ Henry Jacson, trong quá khứ là người ủng hộ nhiệt t́nh kế hoạch của Johnson ở Việt Nam. Nhưng sau cuộc tấn công Mậu Thân 1968, Jackson trở mặt (Bùi Diễm, sđd, trang 223). Rồi trong suốt hai nhiệm kỳ tổng thống thuộc đảng cộng ḥa, Jackson hoàn toàn chống lại mọi kế hoạch của đảng đang cầm quyền—và Việt Nam Cộng Ḥạ Trong những năm tháng cuối của VNCH, tác giả không chú dẫn cho độc giả thấy thái độ của Jackson đối với vấn đề quân viện. Năm 1971 Jackson hăm dọa ông sẽ cắt ngân khoản viện trợ cho VNCH nếu tổng thống Thiệu không cho phép những ứng cử viên thuộc thành phần thứ ba ra tranh cử.

Ở trang 203-205 KĐMTC, tác giả nói thượng nghị sĩ đảng dân chủ Kennedy đưa ra một tu chính và đề nghị cắt 50% ngân khoản viện trợ ... nhưng tác giả quên viết thêm nghị sĩ Jackson là người trong ủy ban bỏ phiếu cho thẩm quyền quốc hội đó. Tác giả cũng quên chú thêm (v́ tác giả có liệt kê trong thư mục) ngày 26 tháng 1-1975, Jackson tuyên bố ở quốc hội, "Năm rồi tôi đă bỏ phiếu cắt 300 triệu [ngân quỹ viện trợ] và năm nay tôi sẽ không bỏ phiếu phục hồi ngân khoản đó. Phải có một giới hạn. ... [Cho] thêm 300 triệu tiền đạn nữa sẽ không giải quyết được những khó khăn ở Đông Nam Á." (Kissinger, sđd, trang 510) Đó là Jackson, người tác giả nghĩ sẽ giúp đỡ khuếch đại tiếng cầu cứu đau thương của VNCH vào những ngày hấp hốị

Sau này, sau khi VNCH đă nằm trong hỏa ngục cộng sản, sau khi gông cùm của cộng sản đă trồng lên đầu người dân miền Nam và xác của những chiến sĩ tuẫn tiết VNCH đă mục rữa, Jackson có ra trước quốc hội đặc câu hỏi về trách nhiệm của Hoa Kỳ đối với những hứa hẹn của Nixon và VNCH. ... Nhưng như mọi chúng ta đều biết, đó chỉ là kịch cảnh thừa của một vở kịch đă văn: Jackson chỉ muốn được công chúng nhận diện (publicity) cho cuộc vận động tranh cử tổng thống trong tương lai (Jackson đă tranh cử tổng thống một lần vào năm 1972, về hạng ba trong cuộc bầu sơ tuyển ứng cử viên tổng thống trong đảng Dân Chủ (đọc, Richard Nixon, RN: The Memoirs of Richard Nixon, trang 544).

Xem tiếp phần chót