Điểm sách: Khi Đồng Minh Tháo
Chạy (phần chót)
Nguyễn Kỳ Phong
Trong KĐMTC tác giả dựa khá nhiều vào
những cuộc phỏng vấn để ghi lại những chi tiết cho tác phẩm. Chuyện
đó hoàn toàn chấp nhận trên phương diện phương pháp sử. Tuy nhiên,
nếu có những cuộc đối thoại nào mà chi tiết đi ngược lại nội dung
của những ǵ đă được xuất bản, được nói đến rồi, với vai tṛ một
người viết sử, tác giả phải có trách nhiệm tŕnh bày luôn để độc giả
thấy được hai mặt trái phải của một sự kiện.
KĐMTC, trang 391-392, tác giả nói về đêm tổng thống Thiệu ra đi. Tác
giả tả sơ là tổng thống Trần Văn Hương kư một nghị định chính thức
đề cử ông Thiệu làm đặc sứ VNCH, cho phép ông đi Đài Loan để phúng
điếu cố tổng thống Tưởng Giới Thạch chết cách đó một tháng. Trong
chuyến xe đi ra phi trường, tác giả tả ông Thiệu ngồi giữa băng sau,
ngồi hai bên là xếp CIA Pogar và tướng Timmes. Chi tiết này tác giả
dựa vào phỏng vấn với Polgar và sử liệu của Frank Snepp (chú thích
34, 35, 36 trong KĐMTC). Nhưng nếu độc giả đọc lại The Palace File
(trang 332), th́ thấy tác giả viết và chú khác đi. Frank Snepp trong
Decent Interval, thuật lại câu chuyện hoàn toàn khác. Snepp—lúc đó
là tài xế—nói ông Thiệu ngồi giữa tướng Timmes và một cận vệ, chớ
không phải giữa Timmes và Polgar (Snepp, trang 434-437). Lời của anh
nhân chứng tài xế này có lư: V́ như đă nói, Polgar và Timmes được
lệnh đi kèm hai ông Thiệu và Khiêm ra phi trường. Nếu hai người này
ngồi trong xe với ông Thiệu th́ ai ngồi với ông Khiêm xe kia? Trong
The Palace File tác giả chú thêm tài liệu của David Butler (mà tác
giả không chú trong HSMDĐL), nhưng đọc Butler th́ thấy Butler tả
khác những ǵ được tả trong KĐMTC: chiếc xe đi trước có ông Khiêm và
Polgar; xe sau có ông Thiệu và tướng Timmes (đọc, Butler, The Fall
of Saigon, trang 351-353). Tác giả đă chú nhiều chi tiết theo tác
phẩm của Frank Snepp, trừ chi tiết đó. Đọc cùng trang đă dẫn trên
trong sách của ông Hưng và Snepp, chúng ta cũng thấy được sự khác
biệt về những lời trao đổi cuối cùng giữa ông Thiệu và đại sứ
Martin. Về chuyện tổng thống Hương kư công hàm cho ông Thiệu rời
khỏi nước: Trong sách The Palace File, cùng trang đă dẫn trên, tác
giả cho ta thấy không những tổng thống Hương mà cả Polgar đă cung
cấp giấy xuất ngoại cho ông Thiệu (một chi tiết mà tác giả không nói
đến trong KĐMTC). Nhưng theo Snepp, ông Hương không có cấp giấy, và
Polgar th́ quên cấp giấy cho ông Thiệu như đại sứ Martin đă yêu cầu.
Snepp nói chính Martin thuật lại chuyện đó cho ông nghe (Snepp; op.
cit., ibid.). Một nhân chứng khác, trung tướng Trần Văn Đôn, trong
Việt Nam Nhân Chứng, trang 467, nói sáng thứ Sáu, 25 tháng 4, ông
Thiệu gọi ông lúc 8 giờ 30 sáng, muốn ông đến dinh Độc Lập gặp ông
Thiệu. Trong khi gặp, ông Thiệu nhờ ông Đôn lấy dùm cho bạn ông
Thiệu một giấy chiếu khán để đi ngoại quốc (trong thời gian đó, ông
Đôn là xử lư thường vụ chức tổng trưởng quốc pḥng; xử lư thường vụ
là v́ ông Đôn là tổng trưởng quốc pḥng trong nội các Nguyễn Bá Cẩn,
nhưng nội các ông Cẩn vừa từ chức vài ngày trước). Những sự thiếu
sót về sử liệu này có thể gây ra sự hiểu lầm là tác gỉa chỉ trưng
bày sử liệu một chiều.
***
Ở phần trên, chúng ta so sánh những sử liệu tác giả dùng; sự chính
xác khi dùng; và phương pháp xử dụng sử liệu của tác giả. Phần này,
chúng ta nói đến lối viết của tác giả và một số sơ sót nhỏ v́ lỗi
của ấn công, hay sự bất cẩn của tác giả, hay cả hai.
Văn phong trong KĐMTC lủng củng v́ có rất nhiều đoạn tác giả dịch từ
tác phẩm khác... rồi thay đổi, rồi thêm vào ư của tác giả ... và sự
tiếp tục đó không làm cho văn phong tác giả liên tục. Đôi khi tác
giả dịch sai—hay cố ư dịch sai và không chú thích—và làm độc giả mất
tin tưởng với tác giả. Một vài chi tiết người điểm sách thấy:
Trang 174-175 KĐMTC, tác giả nói về những kế hoạch tiết giảm năng
lượng tiêu thụ để đối phó với cuộc khủng hoảng năng lương năm 1973.
Trong hồi kư (Nixon, sđd, trang 984-985), tổng thống Nixon viết rơ
là ông đề nghị giảm tốc độ xe di chuyển xuống 50 miles/hour để tiết
kiệm xăng. Nhưng khi đề nghị đưa ra quốc hội, quốc hội chỉ hạ xuống
55 miles/hour. Trong sách, không hiểu sao tác giả lại nói Nixon đề
nghị 55 miles/hour, dù câu văn nguyên tác đă rơ ràng.
Trang 193 và trang 474, tác giả phàn nàn về hoàn cảnh đă đưa Gerald
Ford lên làm tổng thống. Tác giả viết, “Phó tổng thống Ford lên kế
vị. Thế là từ một dân biểu ở Hạ Nghị Viện, vừa mới được Nixon đưa
lên làm Phó Tổng Thống thay ông Spiro Agnew (phải từ chức v́ bị tố
cáo tham nhũng) vài tháng trước, bây giờ nhảy ngay lên ghế tổng
thống, không có bầu bán ǵ cả.” Viết như vậy th́ quên đi nguyên tắc
thay phó tổng thống viết trong hiến pháp Hoa Kỳ. Phụ Hiến thứ 25 của
hiến pháp cho quyền tổng thống đề cử người thay vào chổ trống chức
phó tổng thống, với sự đồng ư của lưỡng viện quốc hội. Quốc hội Hoa
Kỳ, tháng 11 năm 1973 ưng thuận cho Ford làm phó tổng thống với số
phiếu thuận 93-3 ở thượng viện, và 387-35 ở hạ viện. Và Ford cũng
không phải là một dân biểu tầm thường như tác giả viết: đă làm dân
biểu 25 năm, Ford là chủ tịch khối thiểu số (Cộng Ḥa) ở hạ viện từ
1965 đến 1973. Chủ tịch một đảng trong quốc hội thường là nhân vật
quan trọng hàng thứ nh́, hay thứ ba của đảng. Ford là một ứng cử
viên có uy tín nhất mà Nixon có thể t́m được trong thời gian đó. C̣n
chuyện Ford thay Nixon khi Nixon từ chức: đó cũng cũng là một quy
tắc trong Hiến Pháp Hoa Kỳ mà thôi.
Trang 347, đoạn viết về tiểu sử của đại sứ Martin được tác giả trích
theo Frank Snepp (Snepp, sđd, trang 67), nhưng trong đoạn văn nguyên
thủy, Snepp không viết ǵ về chuyện mỗi lần ông Martin uống rượu ông
đều thú thật với cha ông. Tác giả không nhất thiết phải thêm vào
đoạn này mà không có chứng cớ. Cùng trang, tác giả viết (khi c̣n ở
Saigon) mỗi lần gặp đại sứ Martin ông thường trao đổi với ông đại sứ
về những trận đấu bóng giữa đại học Wake Forest College, nơi Martin
theo học, và trường University of Virginia của tác giả. Chuyện này
th́ có thể bàn căi được: Wake Forest College—bây giờ là Wake Forest
Univirsity—trước khi dọn về Winston-Salem, North Carolina, là một
trường đại học nhỏ ở ngoại ô của thành phố Durham, North Carolina.
Năm 1965, trường dọn về Winston-Salem và đổi tên trở thành một đại
học chính thức. Wake Forest College nơi Martin ra trường năm 1932 và
University of Virginia nơi tác giả xuất thân năm 1963 không có liên
hệ ǵ với nhau về phương diện thể thao—ít ra là trong thời khoảng
đó. Và nói về sự chính xác: ở trang kế tiếp, 349, tác giả viết, “Khi
Martin nhậm chức vào hè 1973, t́nh h́nh bang giao Việt-Mỹ rất căng
thẳng. Ông Kissinger lại mới kiêm chức Ngoại Trưởng.” Martin tuyên
thệ nhiệm chức đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam vào 24 tháng 6, 1973;
Kissinger nhận chức tổng trưởng ngoại giao 22 tháng 8, 1973.
Trang 405 tác giả tả đêm đại sứ Martin lên phi cơ rời Việt Nam. Đoạn
văn này đến từ sách của David Butler (Butler, sđd, trang 462-464)
nhưng tác giả lại chú đến từ cuộc phỏng vấn với thiếu tướng John
Murray. Đoạn văn của Butler có tả một thiếu tá TQLC Mỹ to lớn vạm
vỡ; đoạn văn của tác giả tả anh chàng phi công to lớn vạm vỡ. Butler
tả một chiếc C-130 bay cao trên trời, đánh ra một diện tín chung cho
tất cả trực thăng đang di tản, và những cơ quan nào c̣n nhận được
điện tín viễn liên: Chỉ c̣n 21 phi vụ di tản nữa là chấm dứt. Lệnh
của tổng thống Hoa Kỳ là bất cứ phi cơ trực thăng nào liên lạc được
với đại sứ Martin, th́ thông báo với ông ta phải di tản ngay trên
chuyến bay đó theo lệnh của tổng thống. Trong KĐMTC tác giả viết anh
chàng phi công to con, bước xuống phi cơ, trao cho đại sứ Martin một
tờ giấy ... nói đây là chuyến bay cuối cùng ... và Martin bơ phờ ôm
lá cờ Hoa Kỳ trên tay leo lên phi cơ. Đoạn văn tác giả trích theo
không viết như vậy. Một chi tiết khác, rất kỹ thuật, nhưng tác giả
quên. Trang 359, tác giả viết, “Vào lúc bốn giờ năm phút sáng thứ
Ba, ngày 29 tháng Tư (4:05 chiều 28/4 giờ Washington).” Đúng ra là
5:05 chiều ngày 28 tháng 4 tại Washington. Tháng 4 là tháng đổi giờ
ở Mỹ. Ngày đổi giờ là hai giờ sáng ngày Chủ Nhật cuối cùng của tháng
Tư. Ngày 27 tháng 4 là ngày Chủ Nhật cuối của tháng. Từ ngày thứ
Hai, 28 tháng 4, giờ Saigon và Washington chỉ cách nhau 11 tiếng
thay v́ 12 (tháng 4 dến tháng 10 cách nhau 11 tiếng; tháng 11 đến
tháng 4 cách nhau 12 tiếng).
Một vài chi tiết bất cẩn khác: Trang 100, 101, và 105, ba chú thích
này lộn nhau: chú thích 20 là chú thích đúng cho chú thích 19 của
trang 100; chú thích 20 của trang 101 là chú thích 20 của trang 105
(chú thích 19 trích theo The Pentagon Papers. Nội dung The Pentagon
Papers chấm dứt vào cuối năm 1967. Nixon chưa xuất hiện (liên hệ về
chiến tranh Việt Nam) cho đến hết năm đó. Trang 325-326 KĐMTC cho
ghi chú số 5, là trang 436 trong sách của David Landau. Độc giả sẽ
không bao giờ t́m được ghi chú này, v́ quyển The Uses of Powers của
Landau chỉ có 270 trang! Thật ra, trang mà tác giả nói, nằm trong
trang 180 của Landau. Landau chỉ là một anh học tṛ cử nhân ở đại
học Harvard, viết một tiểu luận về Kissinger, chứ không phải là một
nhà nghiên cứu chiến lược như tác giả nói. Trang giới thiệu về sách
của Landau đă đề như vậy. Trang 217, ngày tháng đúng là, 7 tháng 8,
1974; trang 136, ngày tháng đúng là tháng 3, 1972 (tháng 3-1975 làm
ǵ c̣n một bộ tư lệnh quân sự Hoa Kỳ nào ở Đà Nẵng). Trang 334,
Kissinger nói chuyện với Hiệp Hội Nhật Bản ngày 18 tháng 6, chứ
không phải 16 tháng 8 như tác giả viết (đọc lại câu văn tác giả, và
đọc, Guenter Lewy, America in Vietnam, trang 517, phụ chú 54). Trang
290, ngày đúng là 9 tháng 8-1974. Trang 114 viết phó tổng thống
Spiro Agnew sang thăm Saigon ngày 30 tháng 3, 1973. Ngày đúng là 30
tháng 1, 1973.
Trang 369, “... ngày 8 tháng 3, 1965. Hai sư đoàn TQLC Hoa Kỳ đổ bộ
lên Đà Nẵng.” đúng hơn, chỉ có hai tiểu đoàn đổ bộ (Battalion
Landing Team) ngày hôm đó, với số quân khoảng 3.500 người. Battalion
Landing Team là loại tiểu đoàn đổ bộ, tự chiến đấu nên rất đông quân
và trang bị đầy đủ. (đọc, The U.S. Marines in Vietnam: The Landing
and the Buildup, 1965, trang 9-12). Trang 162-164, tác giả nói về
cuộc chiến Trung Đông giữa khối Ả Rập và Do Thái vào ngày 6 tháng
10-1973 ... và viết, “Nixon đang bối rối nhưng đằng sau ông đă có
Tổng Trưởng Ngoại Giao Kiêm Cố Vấn An Ninh rất tỉnh táo và vững
mạnh. Ông Kissinger này lại vừa được giải thưởng Nobel Ḥa B́nh.”
Cuộc chiến Yum Kippur mănh liệt nhưng rất ngắn. Bùng nổ ngày 6 tháng
mười và kết thúc 17 tháng 10. Hàn Lâm Viện Thụy Điển thông báo cho
Kissinger giải thưởng Nobel vào ngày 16 tháng 10-1973.
Trang 45, khi nói về ngày ông Thiệu đọc diễn văn ở Lưỡng Viện Quốc
Hội nhân ngày Quốc Khánh 1968, tác giả viết, “Sáng thứ Bảy, mồng một
tháng 11, một buổi sáng êm ả ở Saigon ...” Mồng một tháng 11, 1968
là ngày thứ Sáu, chứ không phải thứ Bảy (coi lịch, hoặc đọc KĐMTC
trang 47, khi tác giả trích Theodore White, trong đó có đoạn, “...
người ta thấy rằng vụ ngưng ném bom bắt đầu sáng thứ Sáu [1-11-68]).
***
Những ư nghĩ sau cùng của người điểm sách về Khi Đồng Minh Tháo
Chạy. Tương tự như tác phẩm The Palace File/HSMDĐL, Khi Đồng Minh
Tháo Chạy được viết theo lối sử kể truyện (narative history). Sử kể
truyện hấp dẫn và dễ đọc hơn sử biên niên (chronological history).
Một vài thí dụ về những tuyệt tác của sách loại sử kể truyện là,
Hell in a Very Small Place: the Seige of Dien Bien Phu của Bernard
Fall; The Best and the Brightest của David Halberstam; hay, American
Caesar: Douglas MacArthur 1880-1964 của William Manchester.
Sử kể truyện cho người đọc nhiều hứng thú và lôi cuốn người đọc,
nhưng rất khó viết. Người viết loại sách này cần có một văn phong
lưu loát, trí nhớ chính xác, và một sự phong phú về sử liệu. The
Palace File có được vài yếu tố này; nhưng HSMDĐL th́ hoàn toàn
không. Hai tác phẩm gần như là một về phương diện sử liệu, nhưng
KĐMTC không có văn phong lưu loát như The Palace File. Ở những đoạn
văn đầu mỗi chương trong KĐMTC, tác giả cố gắng viết theo lối sử kể
truyện nhưng không thành công. Độc giả có thể thấy điều đó ở đoạn
văn đầu của các Chương Một, Hai, Ba, Sáu, Chín. Ở Chương Sáu, tác
giả giới thiệu những sự biến động của thế giới vào mùa Thu năm 1973
bằng bốn câu thơ bài Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư là một phản đề không
hiểu được.
Ở một vài nơi, tác giả sử dụng sử liệu một chiều: chỉ xài chi tiết
trong sử liệu để biện minh cho lư thuyết của ḿnh, mà không thông
báo cho độc giả những chi tiết khác ngược lại, để độc giả có thể so
sánh. Người ghi lại lịch sử vô tư và không thành kiến là người tŕnh
bày hai mặt của sử liệu, chi tiết, sự kiện, rồi tự quyết định một
kết luận—nhưng đồng thời cũng cho độc giả kết luận riêng của họ với
tất cả sử liệu tác giả đă tŕnh bày.
Như đă nói ở đầu bài viết, Khi Đồng Minh Tháo Chạy là một tác phẩm
hữu ích cho giới độc giả — v́ một lư do nào đó —không cập nhật với
sử liệu, hay không rành về liên hệ Hoa Kỳ-Việt Nam v́ giới hạn ngôn
ngữ. Đa số độc giả sẽ t́m thấy nhiều giải đáp, câu trả lời, về những
bí ẩn trong liên hệ Hoa Kỳ-Việt Nam xảy ra trong cuộc chiến. Tuy
nhiên, đối với một số độc giả đă quen thuộc với sử liệu và tương đối
am tường về những chi tiết của cuộc chiến Việt Nam—nhất là những độc
giả đă thưởng ngoạn The Palace File—có lẽ họ phải chờ một tác phẩm
khác của Nguyễn Tiến Hưng, một tác phẩm khác hơn là Khi Đồng Minh
Tháo Chạy.
|