Bài số: 
											520-1057-vb8180404
											
											Tác giả
											
											Nguyễn Trần Diệu Hương cư trú 
											và làm việc tại San Jose, đă góp 
											nhiều bài viết đặc biệt và được trao 
											tặng giải thưởng viết về nước Mỹ 
											ngay từ năm đầu tiên. Tiếp tục viết 
											về nước Mỹ, trong năm qua, bài 
											”Chuyện Mùa Valentine: Hoàng Thu” 
											của Diệu Hương đă thành “top ten” 
											trên Việt Báo Online, với gần 6,000 
											lượt người đọc. Sau đây là bài viết 
											mới nhất của cô, được ghi chú là để 
											“chia xẻ những nỗi ngậm ngùi” nhân 
											dịp sắp tới ngày 30 Tháng Tư”.
											
											*
											Đầu tháng tư ở Mỹ, 
											mùa xuân vào độ đương th́ mới bắt 
											đầu được hai tuần. 
											Người Mỹ đặc biệt chú ư đến tháng tư 
											v́ đồng hồ vừa mới được vặn lên một 
											tiếng gọi là "Day Light Saving 
											begins". Ngày thật sự dài ra. Bóng 
											tối bị đẩy lùi. Từ hoa Anh đào trắng 
											hồng ở Đông Bắc của thủ đô 
											Washington DC đến hoa puppy vàng cam 
											ở Tây Nam, đường phố cả nước Mỹ 
											nhuộm đầy màu sắc của hoa lá mùa 
											xuân. Nhưng dù trời tháng Tư có xanh 
											ngát đến đâu, với những người Việt 
											lưu vong, dù ở tiểu bang vàng 
											California, vẫn có chút ngậm ngùi, 
											v́ bóng dáng màu đen ảm đạm của 
											tháng 4 năm 1975.
											Và hơn ai hết, nỗi ngậm ngùi của ông 
											Đạt lan tỏa, xót xa như chuyện mới 
											xảy ra hôm nay, tuần trước chứ không 
											phải gần ba mươi năm qua. Nhiều 
											người nghĩ rằng, ba mươi năm rồi c̣n 
											nhắc chi chuyện cũ! Đó là chuyện của 
											quá khứ hăy quên đi! Ông Đạt hoàn 
											toàn không đồng ư!
											Quên thế nào được khi mà nỗi đau c̣n 
											đó và hệ quả của nỗi đau vẫn c̣n 
											tưởng như không dứt! Đâu có cần phải 
											sống thời Hai Bà Trưng, mỗi người 
											dân Việt đều cảm nhận được nỗi đau 
											của tổ tiên phải vào rừng t́m ngà 
											voi, xuống biển t́m ngọc trai làm 
											giàu cho quân Tàu tàn ác, gian tham! 
											Đâu có cần phải sống dười thời vua 
											Quang Trung cũng cảm thấy hào khí 
											chiến thắng Đống Đa, đuổi quân Bắc 
											Phương xâm lược chạy dài! Đâu có cần 
											phải sống thời nhà Trần cũng cảm 
											thông được nỗi ngậm ngùi của Công 
											Chúa Huyền Trân phải làm dâu nước 
											láng giềng để đổi lấy hai châu Ô, Lư 
											mở rộng bờ cơi về phương Nam.
											Đời sống ở Mỹ bận rộn quá. Người ta 
											không có th́ giờ nhắc tới chuyện cũ. 
											Nhất là tụi trẻ bị cuốn hút vào đời 
											sống đầy tốc độ, nhưng ông Đạt tin 
											rằng nhiều người trong số họ sẽ cảm 
											nhận được một phần "nỗi đau tháng tư" 
											của ông, mặc dù vào thời điểm đó họ 
											c̣n ở tuổi ấu thơ hay vừa mới chào 
											đời. Chuyện trăm năm, ngàn năm trước 
											từ đời tổ tiên dựng và giữ nước họ 
											chưa chào đời, c̣n cảm nhận được nỗi 
											đau, c̣n tự hào về những giai đoạn 
											vàng son của lịch sử th́ chuyện ba 
											mươi năm trước, ông tin, ít nhất tụi 
											nhỏ cũng đồng cảm với ông. 
											Chỉ có bà Đạt, bà như ch́m vào cơi 
											vô minh nào đó, không c̣n chia sẽ 
											được với ông những ngọt bùi cay đắng 
											như lời khấn trước bàn thờ tổ tiên, 
											như lời hứa "gừng cay, muối mặn xin 
											đừng bỏ nhau" ngày họ lấy nhau gần 
											nửa thế kỷ trước.
											Căn bệnh Alzheimer vẫn c̣n là chứng 
											nan y chưa có thuốc chữa, đẩy bà vào 
											cơi vô minh, trí nhớ bị xóa nḥa từ 
											mười bốn năm nay, làm ông trở thành 
											một C.N.A (Certified Nurse Assisant) 
											bất đắc dĩ. 
											Lúc bà mới trở bệnh, cán sự xă hội ở 
											bệnh viện đă bảo ông:
											- Với bệnh của bà nhà, cần có người 
											săn sóc bên cạnh 24/7 (24 tiếng mỗi 
											ngày, 7 ngày mỗi tuần) có hai giải 
											pháp: hoặc là ông đưa bà vào viện 
											dưỡng lăo có người chăm sóc 24/7 cho 
											bà cùng với những bệnh nhân khác, 
											hoặc là ông có thể đưa bà về nhà, 
											bệnh viện sẽ huấn luyện kỹ năng săn 
											sóc bệnh nhân Alzheimer cho ông, mỗi 
											tháng hai lần sẽ có y tá đến xem xét 
											t́nh trạng của bà.
											Không cần suy nghĩ, ông xin đưa bà 
											về nhà v́ ông không muốn bà sống cô 
											đơn ở một nơi xa lạ, với những người 
											khác màu da và những người chăm sóc 
											th́ không có tấm ḷng như tấm ḷng 
											của ông đối với bà. Ông đă đến thăm 
											người quen ở viện dưỡng lăo vài lần 
											và thấy những người trợ y (C.N.A) 
											đối xử không tử tế lắm với bệnh nhân, 
											nhất là những bệnh nhân bị Alzheimer 
											th́ lối đối xử càng tệ hơn v́ họ 
											không có khả năng nhận xét, không có 
											khả năng phàn nàn với những người có 
											thẩm quyền. Hơn thế nữa, tận cùng 
											tâm khảm ông vẫn hy vọng dù ở trong 
											cơi vô thức, nhưng với không khí gia 
											đ́nh ở nhà với sự chăm sóc tận t́nh 
											của ông với một trái tim chân thật 
											của nghĩa tào khang, biết đâu có một 
											phép màu đưa bà về lại với thế giới 
											b́nh thường.
											Thế là ông cắp sách đi học một khóa 
											huấn luyện ba tháng để săn sóc bệnh 
											nhân Alzheimer ở nhà. Mái tóc ông 
											điểm bạc, rất dễ nhận ra giữa những 
											mái tóc blond, brunette hay đen 
											tuyền của những học viên c̣n trẻ. 
											Ông c̣m cơi đi học, với nỗi ḷng 
											canh cánh nghĩ đến bà đang cô đơn 
											lạc lơng ở nursing home. Mỗi ngày đi 
											học về ông ghé thăm bà bắt đầu ứng 
											dụng những điều học được từ lớp huấn 
											luyện, săn sóc bà từ hồi c̣n ở 
											nursing home. Nhân viên ở đó nhẹ 
											được phần nào công việc nhờ t́nh 
											nghĩa vợ chồng của ông đối với bà.
											
											Bệnh nhân Alzheimer chừng như có một 
											nữa t́nh huống của một em bé vừa 
											chập chững biết đi, một nửa t́nh 
											huống của một người điên ở một mức 
											độ không nguy hiểm. Họ vẫn ăn, vẫn 
											nói, vẫn thở chỉ mất đi bộ nhớ trong 
											năo, mất đi khả năng suy nghĩ. Ở lớp 
											học ông đă nghe kể về những bệnh 
											nhân Alzeimer mở bếp điện lên, rồi 
											quên tắt để cháy lan ra cả nhà hàng 
											xóm. Hay có một bệnh nhân khác, ban 
											đêm mở cửa đi ra không hề đóng cửa 
											lại để trộm vào nhà khuân hết đồ đạc 
											trong nhà. Bi thảm hơn có một bệnh 
											nhân đi bộ ra tận công viên thành 
											phố vào ban đêm, đi lên mặt hồ nước 
											rồi ch́m luôn dưới đáy hồ bỏ lại cả 
											thế giới b́nh thường lẫn cơi vô 
											minh.
											Lần được huấn luyện về chăm sóc bệnh 
											nhân ông hoàn toàn không nghĩ là đời 
											ông lại có nhiều ngả rẽ không ngờ. 
											Hồi c̣n trẻ vào trường vơ bị Đà Lạt, 
											ông đă chọn vơ nghiệp như là nghề 
											nghiệp cả đời. Đó là thời thanh niên 
											đầy sinh lực, mắt sáng môi tươi. Rồi 
											ông trưởng thành từ mặt trận này đến 
											chiến trường khác. Mọi việc ở nhà đă 
											có bà đảm đương, quán xuyến dạy con 
											nên người, phụng dưỡng mẹ thay chồng. 
											Có những lần tưởng đă bỏ bà và các 
											con lại một ḿnh, trời thương ông 
											vẫn c̣n sống lành lặn.
											Rồi cùng vận nước nổi trôi ông và 
											gia đ́nh trôi dạt đến quê người, 
											kinh nghiệm chiến trường không giúp 
											ǵ được cho ông ở quê hương thứ hai. 
											Ông vào làm ở warehouse của một công 
											ty chuyên cung cấp vật liệu xây dựng 
											cho các tỉnh miền Tây Hoa Kỳ. Ngày 
											xưa ông làm việc giữa những bao cát 
											trong hầm chỉ huy ngoài chiến trường, 
											bây giờ ông làm việc giữa những 
											thùng giấy lớn, đôi khi c̣n nặng hơn 
											cả ông. Ngày xưa ông lái xe Jeep, 
											bây giờ ông lái fort-lift. Nhưng sự 
											khác biệt đó không làm ông đau ḷng 
											như mỗi lần nghĩ đến các bạn cùng 
											khóa vơ bị đang chịu nhục h́nh trong 
											những trại cải tạo ở rừng thiêng núi 
											độc trên quê nhà hay nghĩ đến những 
											đồng đội, thuộc cấp măi măi nằm 
											xuống trong những trận chiến bảo vệ 
											tự do.
											Khi cộng đồng lưu vong lớn dần, có 
											thêm làn sóng tỵ nạn, vượt trùng 
											dương, chấp nhận hiểm nguy bảo táp 
											để có tự do, bà bàn với ông đưa gia 
											đ́nh về miền Bắc California gần với 
											tập quán Việt Nam hơn, có nhiều 
											trường đại học thuận tiện cho các 
											con hơn. Ông bỏ cái xe fort-lift, bỏ 
											cái walkie-talkie. Lần này là tự 
											nguyện và hiểu rơ lư do, chứ không 
											phải như dạo tháng tư 75, ông rời 
											quê nhà gần như bị ép buộc, đầy uất 
											ức, hoài nghi và mù mờ về lư do ḿnh 
											phải bỏ súng giữa đường.
											Định cư ở Silicon Valley vào đầu 
											thập niên 80, đúng vào lúc thung 
											lũng điện tử đang bùng phát. Dạo đó, 
											tóc ông mới lơ thơ điểm bạc, ông lại 
											cắp sách đi học một lớp căn bản về 
											điện tử ba tháng, rồi vào làm trong 
											một hăng điện tử cùng với một số 
											người đồng hương. Những anh chàng 
											trẻ bằng tuổi con ông vẫn gọi đùa 
											ông bằng bố. Hay những người trung 
											niên vẫn ngậm ngùi mỗi độ tháng tư. 
											Họ vẫn nhắc về những trận chiến hào 
											hùng ở B́nh Giả, Đồng Xoài, Quảng 
											Trị, An Lộc, Charlie vv… mà không hề 
											biết là ḿnh đang cùng làm việc với 
											ông "người hùng của mùa hè đỏ lửa 
											năm 1972", chỉ huy những người lính 
											thủy quân lục chiến dũng cảm cắm lại 
											được cờ vàng ở cổ thành Quảng Trị. 
											Bản tính ông vốn ít nói, đôi lúc họ 
											hỏi về quá khứ của ông, ông chỉ cười, 
											nhắc họ nhớ một câu hát của nhạc sĩ 
											Lam Phương "Đời mong manh lắm, kể 
											chi chuyện ḿnh". Họ không biết rằng 
											mỗi độ tháng tư, ông thường vào 
											pḥng vệ sinh hay ra ngoài trời đứng 
											lặng lẽ như đang hút thuốc, thật ra 
											ông không hề hút thuốc chỉ đến những 
											nơi vắng người để dấu nỗi ngậm ngùi, 
											để tưởng nhớ những bạn bè, thuộc cấp 
											đă bỏ ḿnh cho tự do.
											Ở quê nhà, bà là công chức ṭa hành 
											chánh tỉnh. Lưu lạc quê người, bà 
											đứng bán ở trạm xăng, phụ việc hành 
											chánh ở pḥng mạch một bác sĩ tư rồi 
											có thời gian đi làm hăng điện tử 
											cùng ông. Trời không thương, chẳng 
											may bà bị cảm xoàng, nhức đầu, chóng 
											mặt. Uống thuốc trụ sinh không hết 
											ông đưa bà vào bệnh viện làm đủ mọi 
											xét nghiệm y khoa kéo dài cả nữa năm. 
											Cuối cùng bác sĩ mời ông đến, báo 
											tin bà bị Alzeimer ở tuổi chưa đến 
											sáu mươi.
											Đời ông có 3 lần ông khóc, lần bà cụ 
											thân sinh qua đời, ông không có mặt 
											được ở phút lâm chung của mẹ, ông 
											khóc v́ ḿnh chưa trả hiếu được 
											nhiều cho mẹ. Lần thứ hai là ngày 30 
											tháng 4 năm 75 nước mắt ông rơi cùng 
											vận nước nổi trôi. Và lần thứ ba ông 
											biết bà sẽ vĩnh viễn vào cơi vô 
											minh, mặc dù thân xác vẫn c̣n đó, 
											hiện hữu bên ông.
											Các con xúm lại an ủi ông. Tất cả 
											đều thương mẹ, nhưng những cô con 
											dâu Việt Nam lớn lên ở Mỹ đâu có 
											được như bà ngày trước, phụng dưỡng 
											mẹ chồng chu đáo nên vẫn muốn để bà 
											ở viện dưỡng lăo.
											Ông làm theo quyết định của ḿnh, 
											xin về hưu non, đi học về nghề trợ y 
											tế có thể chăm sóc cho bà, trả nghĩa 
											tào khang. Dạo bà mới phát bệnh măn 
											tính, không ngờ người cán sự xă hội 
											ở bệnh viện cảm kích t́nh nghĩa vợ 
											chồng của những người di dân gốc Á, 
											xin cho ông được trợ cấp chính phủ 
											dành cho những người chăm sóc bệnh 
											nhân Alzheimer nên t́nh cờ ở vào mùa 
											thu của cuộc đời, ông có một công 
											việc full time khác là trợ y 
											(Certified Nurse Assistant) mà bệnh 
											nhân duy nhất không may lại là người 
											bạn đời. H́nh như lúc bắt một con 
											chiên vác thánh giá, Chúa đă cho họ 
											đủ sức khỏe để chịu gánh nặng. H́nh 
											như lúc bắt một phật tử trả nghiệp 
											chướng, Phật đă trợ giúp tinh thần 
											cho họ. Nên ông vẫn b́nh an tâm hồn, 
											mặc dù không c̣n hạnh phúc tṛn đầy 
											như trước năm 1975 hay hạnh phúc một 
											phần trước ngày bà ch́m vào quên 
											lăng.
											Ông làm những bài tính cộng, trừ, 
											nhân, chia với thu nhập hạn chế của 
											cả hai vợ chồng và chi phí cần thiết 
											cho đời sống vào độ hoàng hôn. Ông 
											biết các con không bỏ cha mẹ, mặc dù 
											ông không trông mong chữ hiếu vẹn 
											toàn như trong "Nhị thập tứ hiếu" 
											hồi xưa. Vả chăng, đi bằng bàn chân 
											của ḿnh vẫn thoải mái hơn phải phụ 
											thuộc người khác. Rồi ông thuê một 
											căn condo minium hai pḥng ở gần 
											công viên, gần bệnh viện để dễ dàng 
											cho sức khỏe cuối đời của hai ông bà.
											Ông vốn ít nói lại càng trầm lặng 
											hơn nhưng ông vẫn âm thầm dạy các 
											con dù họ đă thành người bằng cách 
											riêng của ông. Cách của một người 
											thích làm hơn thích nói. Ông chép 
											lại một câu thơ của nhà thơ Nguyễn 
											Tất Nhiên "Mỗi mặt trời phải trả giá 
											một hoàng hôn" với khổ chữ lớn dán ở 
											pḥng khách, để nhắc nhở các con: 
											kết quả chúng (và nhiều người lớn 
											hay trung niên) đạt được hôm nay là 
											nhờ có lớp già của ông lót đường. 
											Lớp người ở tuổi hoàng hôn như ông 
											đă lót đường cho họ, từ thời họ mới 
											sinh ra vào đoạn cuối cuộc chiến ở 
											quê nhà hay những ngày thơ ấu của họ 
											ở quê người.
											Lũ con hiểu ngay về thăm bố mẹ 
											thường xuyên hơn, và chăm sóc mẹ kỹ 
											hơn mặc dù không may từ hơn 10 năm 
											nay trí óc bà đă rong chơi ở cơi hư 
											không. Mỗi tuần cô con gái lớn về 
											thăm hai ông bà đi chợ, nấu ăn cho 
											bố mẹ. Ông chỉ có việc săn sóc ăn 
											uống và vệ sinh cho bà mỗi ngày. Th́ 
											giờ c̣n lại ông đọc sách báo đủ loại 
											từ báo Mỹ đến báo Việt và chơi ô chữ 
											trên báo như thể dục cho trí óc. Ông 
											phải sống khỏe mạnh, để không làm 
											phiền người khác để c̣n có thể lo 
											cho bà cho đến cuối đời.
											Ban đêm mỗi khi tuổi già khó ngủ, 
											ông vẫn thường để CD chạy bài "Ru
											em sông núi đợi chờ" với tiếng hát 
											bằng cả trái tim của Việt Dzũng và 
											Nguyệt Ánh, bài hát đă ru bà vào 
											giấc ngủ rất nhanh nhưng lại làm ông 
											thao thức trăn trở thêm v́ một câu 
											hát rất hay "Ru em gịng lệ quê 
											hương, chảy xuôi trăm ngă trùng 
											dương chia ĺa". Tương tự một số 
											người ghiền thuốc lá, biết chất 
											nicotin trong thuốc lá tàn phá cơ 
											thể về rất nhiều mặt họ vẫn hút, ông 
											dù thao thức dù trăn trở vẫn nghe 
											bài hát đó mỗi đêm. Có đêm, ông bận 
											một chuyện ǵ đó quên để CD chạy bài 
											hát, bà hỏi ngay:
											- Nhạc đâu rồi? Không có bài hát đó 
											làm sao ngủ được?
											Ông không biết hát để ru bà như bà 
											đă ru các con ngày xưa bằng những 
											câu ca dao Việt Nam mộc mạc thân 
											thương, nhưng ông vẫn "ru em" bằng 
											những câu hát đi vào ḷng mỗi một 
											người Việt lưu vong, có tấm ḷng. 
											Điều đó cũng giống như một em bé sơ 
											sinh, được ru ngủ mỗi đêm. Nếu không 
											có tiếng hát, sẽ rất khó cho em đi 
											vào giấc ngủ.
											Lâu lâu ông vẫn th́ thầm với bà, mặc 
											dù bà chỉ nh́n ông bằng đôi mắt lạc 
											thần:
											- Như ḿnh vậy mà sướng cứ nhớ nhiều 
											thứ như tôi, đôi lúc cũng đau đầu v́ 
											nghĩ lại niềm vui th́ không ai có 
											thể vui được. Nhưng hồi tưởng lại 
											những nỗi buồn nhất là nỗi buồn của 
											tháng tư 75, th́ nỗi ngậm ngùi vẫn 
											c̣n nguyên, ca khúc phim buồn thảm 
											lại kéo về trong tâm khảm.
											Mỗi tuần ông dẫn bà ra công viên ít 
											nhất là ba lần. Ông chọn quần áo 
											chỉnh tề cho bà và đeo cho bà một 
											cái kính mát, để không ai thấy được 
											đôi mắt vô hồn của bà. Ông cầm tay 
											bà đi dọc theo những băi cỏ của công 
											viên. Chốc chốc, mỏi chân hai vợ 
											chồng lại ngồi phơi nắng trên ghế đá. 
											H́nh ảnh đó rất quen thuộc với những 
											người già ra tập thể dục ở công viên. 
											Họ vẫn thầm khen đôi vợ chồng già 
											hạnh phúc, mặc dù không thấy ai nói 
											với ai câu nào!
											Ông c̣n một niềm vui khác là lâu lâu 
											dành dụm từ khoản thu nhập hạn chế 
											của hai vợ chồng. Ông lại gởi về 
											giúp cho những người bạn đồng ngũ 
											vẫn c̣n chật vật với đời sống mỏi 
											ṃn ở quê nhà. Được thư cám ơn ông 
											vẫn trịnh trọng đọc cho bà nghe, th́ 
											thầm kể với bà tại sao ông giúp 
											người này mà chưa giúp được người 
											khác. Bà nghe hẳn là không biết ai 
											với ai nhưng vẫn gật gù, chăm chú 
											nghe ông đọc thư. Mỗi lần các con 
											biếu tiền nhận Father's Day, 
											Mother's Day hay sinh nhật của hai 
											ông ba, ông chỉ bỏ một phần vào 
											account ở ngân hàng, cái account vẫn 
											c̣n nguyên tên hai vợ chồng mặc dù 
											bà đă ch́m vào cơi vô minh từ gần 
											mười hai năm nay. Phần c̣n lại, ông 
											lại gởi về chia xẽ với những người 
											đồng ngủ bên nhà mà nỗi ngậm ngùi 
											hẳn là hơn ông bội phần.
											Đôi lúc ông vẫn tự an ủi khi nh́n 
											quanh, những "người bạn hoàng hôn" 
											của ḿnh nhiều người đă phải sống 
											một ḿnh hoặc nh́n xa hơn, nhiều 
											người bạn cùng khóa đă măi măi nằm 
											xuống ở một mặt trận hay một góc 
											rừng heo hút nào đó. Phải chăng, nỗi 
											ngậm ngùi vẫn đeo đẳng ông từ gần ba 
											mươi năm nay, như một vết thương 
											không bao giờ lành vẫn buốt lên nhức 
											nhối hơn mỗi độ tháng tư? 
											Tiếc là bà không c̣n như xưa để chia 
											xẻ nỗi ngậm ngùi cùng ông, như bà đă 
											từng chia xẻ mọi cay đắng ngọt bùi 
											với ông từ những ngày xưa cũ.