Tưởng Niệm Ông Đại Tướng
Đại Tướng Cao Văn Viên (1921-2008)
Nguyễn Kỳ Phong
Một
ngày mùa Hè năm 2002 tôi nhận điện thoại. Người ở đầu giây xin nói
chuyện với “anh Kỳ Phong.” Trả lời là tôi đang nghe, người bên kia
tiếp tục: “Anh Kỳ Phong, tôi là Cao Văn Viên. Tôi nghe nói anh đang
dịch một cuốn sách tôi viết. Nếu anh không bận, tôi xin gặp anh nói
chuyện vài tiếng. Tôi đến nhà anh được không?” Rất ngạc nhiên, nhưng
tôi trả lời được, và chỉ đường cho ông đến nhà. Buông điện thoại
xuống, tôi chưa hiểu tại sao ông đại tướng gọi ḿnh, và có chuyện ǵ
để nói? Hay là ông không muốn tôi dịch quyển sách ông viết cho trung
tâm Quân Sử Lục Quân Hoa Kỳ ra tiếng Việt? Ngồi suy nghĩ để dự đoán
câu chuyện đối thoại sẽ là ǵ. … Chừng một tiếng sau tôi thấy một
chiếc xe Ford loại nhỏ chạy vào truớc cửa. Từ trong nhà nh́n ra, tôi
thấy một ông già yếu, lưng hơi c̣ng xuống, một tay chống cây gậy,
tay kia cố gắng đóng cửa xe lại. Thấy cảnh đó tôi giựt ḿnh: Người
trong điện thoại mà tôi đă nói chuyện có một giọng nói rất khoẻ
mạnh, nếu không nói là giọng khoẻ như của một trung niên. Nếu đă
biết ông yếu như vậy, tôi không thể để ông lái xe đến nhà. Tôi vội
vàng chạy ra xe và nói với ông, “Thưa bác, từ đây về sau bác cần ǵ,
cháu sẽ đến gặp bác. Bác không nên lái xe đường xa như vậy đến đây.”
Và đó là bắt đầu sự quen biết của tôi đối với bác Cao Văn Viên.
Vài năm trước trước khi tôi được gặp bác Viên, t́nh cờ tôi có đọc
qua cuốn The Final Collapse do bác Viên viết và được trung tâm Quân
Sử Lục Quân Hoa Kỳ xuất bản năm 1985. Cuốn The Final Collapse là một
trong 17 quyển sách loại chuyên đề, viết về chiến tranh Việt Nam, do
Center of Military, the United States Army bảo trợ và xuất bản. V́
đây là một loại sách chuyên môn — mà lại do chánh phủ xuất bản giới
hạn — nên không phổ quát bên ngoài giới không chuyên môn, và ít thấy
ngoài thư viện công cộng. Tôi thấy quyển sách có nhiều điều lư thú.
Đầu năm 2002 tôi bắt đầu dịch quyển The Final Collapse ra tiếng Việt
(Hơn 10 năm trước, tôi cũng dịch một quyển cũng do Center of
Military xuất bản, Lam Son 719, của thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh.
Sách nói về cuộc hành quân đánh qua Lào tháng 2-1971. Nhưng Lam Son
719 bản Việt ngữ chỉ được đăng từng kỳ trên báo địa phương chứ không
được xuất bản ra thành sách.). Có lẽ trong thời gian dịch quyển The
Final Collapse, bạn bè đến nhà chơi, thấy công việc tôi đang làm rồi
nói ra ngoài; và bác Viên nghe được chuyện. Mục đích của bác Viên
đến là để hỏi tôi về bản tiếng Việt của The Final Collapse.
Gặp nhau, bác Viên hỏi tôi quyển sách đă dịch như thế nào rồi, có
khó khăn không … rồi bác đi thẳng vào vấn đề. Bác nói là bác không
đồng ư lắm về quyển The Final Collapse: quyển sách viết xong hơn bốn
năm rồi mới được cho ra đời; b́a sách là h́nh một chiếc xe tăng có
lá cờ cộng sản … tất cả đều đi ngược lại ư muốn của người viết.
Nhưng chỉ là một người viết contract, ông không có được quyết định
trong ban biên tập/ xuất bản. Bây giờ thấy tôi dịch bản này ra tiếng
Việt, bác Viên hỏi tôi là có thể nào cho ông đọc bản thảo và thêm
vào những phụ chú để giải thích khi thấy cần. Bác Viên cũng nói thêm
là trong những năm qua, nhiều sách và bài báo viết về thời gian ông
làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (TTMT QLVNCH) …
những tác giả đó, hoặc với một ác ư, hoặc chưa hiểu thấu sự vụ bên
trong nên viết như vậy. Bác Viên đề nghị đây là một cơ hội cho ông
đặt lại vấn đề cho đúng chổ. Một vài phụ chú, một lời bạt là đủ để
nói lên tâm sự của ông. Tôi đồng ư với đề nghị của bác Viên không do
dự, với hai lư do rất đơn giản: Tôi có quyết định cuối cùng trong
bản thảo; và, đây là cơ hội cho độc giả nghe tiếng nói của đại tướng
Cao Văn Viên — một người ít nói về những chuyện đă xảy ra; những
biến cố đưa đến sự thất thủ của Việt Nam Cộng Ḥa. Trước khi về, bác
Viên đề nghị chương tŕnh làm việc: hai tuần gặp nhau ăn trưa một
lần, để trao đổi và sửa bản thảo. Tôi đồng ư.
Đến đây tôi xin được nói về tư cách của bác Viên. Tôi thích ông: ông
có ngôn từ, lối nói chuyện, và đùa giỡn của tánh t́nh người miền nam
… tôi thấy ông thật tự nhiên qua những đối thoại. Tôi để ư một điều:
trừ lần đầu tiên trên điện thoại ông gọi tôi là, “anh Kỳ Phong,” từ
sau đó, lúc nào ông cũng thân mật gọi tôi đơn giản là “Kỳ Phong.”
Lúc nào cũng vậy. Riêng tôi, tôi ở xa và dưới ông c̣n hơn “kính nhi
viễn chi;” tôi quá nhỏ đối với ông. Tôi chưa bao giờ gọi ông bằng
chức vụ. “Bác Viên” là lối xưng hô duy nhất tôi xử dụng — khi nói
với ông ở ngôi thứ nhất hay nói về ông ở ngôi thứ ba. Tôi thích sự
vui tính của ông. V́ hai tuần đi ăn trưa một lần, đôi khi tôi giành
trả tiền, đôi khi ông nài nỉ trả tiền … và đôi khi người chủ quán
phở “biếu không” bửa ăn trưa! Sau vài lần tranh nhau trả tiền, ông
đề nghị: luân phiên thay nhau trả. Dĩ nhiên tôi đồng ư. Một hôm đang
ăn trưa, ông nh́n tôi, vẻ mặt tư lự, rồi buột miệng lẩm bẩm “hhmm …”
Tôi ngạc nhiên, hỏi có chuyện ǵ? Ông cười lớn lên và nói, “Hhmmm,
không biết hôm nay ai trả tiền ta?” Tôi cũng cười, thấy thật vui với
ông đại tướng.
Mùa Thu năm 2003 bản tiếng Việt của The Final Collapse ra đời với
tựa là Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Ḥa. Ở Lời Bạt và phần Phụ
Chú, bác Viên có thêm vào hai phần mà ông chưa bao giờ nói ra cho
đến lúc đó: Vai tṛ của ông trong cuộc đảo chánh 1-11-1963 (ông bị
bắt nhốt ở bộ tổng tham mưu v́ từ chối không tham dự/ ủng hộ); và
vai tṛ của Bộ Tổng Tham Mưu trong những năm cuối cùng của cuộc
chiến (chỉ là một hộp thư liên lạc giữa tổng thống Thiệu và các tư
lệnh Quân Đoàn).
Đại tướng Cao văn Viên vào lính rất muộn so với lứa tuổi. Sanh năm
1921, gia nhập quân đội và ra trường sĩ quan Vũng Tàu năm 1949. Mang
lon thiếu úy năm hai mươi tám tuổi. Khi ông được thăng chức thiếu
tướng năm 42 tuổi (3-3-1964), ông là sĩ quan được lên cấp tướng trễ
nhất so với các tướng lănh của thời 1960-1967 — So với các ông Trần
Văn Đôn, mang thiếu tướng năm 38 tuổi; Tôn Thất Đính, 35; Nguyễn Cao
Kỳ 34; Lê Nguyên Khang, 33; Nguyễn Văn Thiệu, 40. Tướng Viên cũng là
sĩ quan cuối cùng được lên cấp tướng theo hệ thống quân đội Pháp:
đại tá lên thiếu tướng, thay ǵ lên chuẩn tướng như trong hệ thống
quân đội Hoa Kỳ mà QLVNCH bắt đầu áp dụng từ tháng 8-1964.
Trong thời gian gặp tướng Viên, tôi có hỏi ông nhiều chuyện và được
giải thích cặn kẻ. Nhưng cũng có nhiều chuyện tôi không dám hỏi v́
sự tế nhị của câu chuyện. Những chuyện tôi ngại hỏi như: Có phải
tướng Viên được lên tướng v́ đă đích thân chỉ huy — và bị thương —
trong cuộc hành quân Quyết Thắng đánh vào mật khu Việt Cộng ở Giồng
Bầu, Hồng Ngự, hay là ông đă có công giúp tướng Trần Thiện Khiêm,
tướng Nguyễn Khánh “chỉnh lư” tướng Dương Văn Minh vào đầu năm 1964?
Hay là kết quả của cả hai thành tích trên? Một thắc mắc khác là, làm
sao từ một sĩ quan đại tá bị bắt giữ v́ không theo phe đảo chánh,
tướng Viên được trả lại quyền chỉ huy trưởng lữ đoàn Nhảy Dù rồi
được cho gia nhập vào trung tâm quyền lực của Hội Đồng Tướng Lănh
chỉ hơn một năm sau đó?
Suy luận từ những ǵ nghe được từ tướng Viên — suy luận là v́ tôi
chưa bao giờ hỏi thẳng hay nghe tướng Viên nói chi tiết về những ǵ
được viết ra đây — tôi nghĩ ông được lên tướng một phần từ chiến
công trong cuộc hành quân Quyết Thắng (3-1964); một phần đến từ cuộc
chỉnh lư 1964; và phần c̣n lại đến từ liên hệ và vai tṛ của ông
trong những năm xáo trộn 1964-1967. Trong cuộc chỉnh lư của tướng
Khánh năm 1967, Lữ Đoàn Nhảy Dù dưới quyền của đại tá Viên (lúc đó
vẫn c̣n đại tá) đă bắt giữ những tướng liên hệ đến cuộc đảo chánh
năm 1963, và những sĩ quan thuộc về phe của tướng Minh. Ở mặt ngoài
tuy trung tướng Khánh là người cầm đầu cuộc chỉnh lư, nhưng bên
trong, quyền thế thật sự nằm trong tay trung tướng Khiêm và những sĩ
quan trẻ có quân trong tay. Sau khi lên thiếu tướng ông Viên nằm gần
với trung tâm quyền lực hơn. Năm 1964, ông là một trong những “Young
Turks” đang thật sự chỉ huy quân đội. Một tài liệu từ ṭa đại sứ Mỹ
liệt kê những “người lănh đạo trẻ” của năm 1964 là các ông Thiệu,
Kỳ, Viên, Lê Nguyên Khang, Phạm Xuân Chiểu, Nguyễn Bảo Trị, Tôn Thất
Xứng, Nguyễn Thanh Sằng, Đặng Văn Quang, Vĩnh Lộc, Nguyễn Chánh Thi,
Dư Quốc Đống, Chung Tấn Cang. (Young Turks là tên gọi chung một số
sĩ quan, chính trị gia trẻ của đế quốc Ottoman, Thổ Nhĩ Kỳ sau này,
vào cuối thế kỷ 19. Những người trẻ này có nhiều quyết định rất “cấp
tiến” so với giới lănh đạo thế hệ trước, với hy vọng cứu vớt sự suy
đồi của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn đầu thập niên 1900s.)
Trong bốn năm 1964-67 — cho đến khi bầu cử quốc hội và tổng thống
đầu tiên của nền Đệ Nhị Cộng Ḥa hoàn tất (3 tháng 9-1967) — giới
lănh đạo quân lực VNCH thay đổi liên tục. Trong giai đoạn này, muốn
giữ được quyền chỉ huy và không bị lưu đày ra nước ngoài không phải
dể. Phải có tài ngoại giao và sự dũng mănh của ḿnh đối với các sĩ
quan đồng nghiệp. Tôi nghĩ tướng Viên có hai yếu tố đó. Tôi dựa sự
phán đoán này vào vài chuyện tôi nghe và t́m hiểu được (qua tài
liệu). Trong cuộc hành quân ở Kiến Phong năm 1964, đại tá Viên đích
thân chỉ huy tại mặt trận. Trong lúc giao tranh, hỏa lực của Việt
Cộng đàn áp mạnh … thấy nguy hiểm, người sĩ quan Thiết Giáp có mặt
tại đó là Lư Ṭng Bá, nói với đại tá Viên nên vào bên trong xe thiết
vận xa để chỉ huy và tránh đạn. Nhưng đại tá Viên trả lời, “Ḿnh chỉ
huy, phải ở trước mặt lính th́ lính mới đánh. Lính không thấy mặt
người chỉ huy th́ làm sao đánh hăng được (tôi nghe tướng Viên nói
chuẩn tướng Bá là vai cậu hay chú ǵ đó của Bác Gái, và trong liên
hệ gia quyến bên vợ, tướng Bá có vai trên tướng Viên). Chuyện đánh
nhau trong cuộc hành quân này tôi được anh Đoàn Kim Tuấn, sĩ quan
tiểu đoàn 1 Nhảy Dù tham dự xác nhận (trung tá Tuấn, khoá 9 Thủ Đức,
sau này về làm việc ở Nha Kỹ Thuật). Tháng 5-1966, khi biến động
miền Trung lên tận cao điểm, chính phủ của thiếu tướng Kỳ có cơ nguy
sụp đổ v́ những biến loạn đó. Hội đồng Tướng Lănh quyết định đem
quân ra miền Trung để biểu dương uy thế của chính quyền trung ương.
Tối ngày 4 tháng 4-1966, tướng Kỳ và Viên, đại tá Nguyễn Ngọc Loan,
hai tiểu đoàn TQLC, một số đơn vị tâm lư chiến, an ninh quân đội, và
cảnh sát dă chiến bay ra Đà Nẵng. Một bộ tư lệnh dă chiến được thiết
lập ở Đà Nẵng, để từ đó quân chánh phủ sẽ tiến ra Huế. Tướng Viên có
nói với tôi về biến cố này. Ông nói tướng Kỳ chỉ ra đó một ngày rồi
về v́ phải nói chuyện với trung tướng TQLC Hoa Kỳ, Lewis Walt, đang
chỉ huy quân lực Mỹ ở Vùng I, và là người có nhiều thiện cảm và đang
bảo vệ tướng Nguyễn Chánh Thi. Khi tướng Viên vừa bước chân xuống
phi trường, tướng Thi gọi điện thoại cho ông ngay: “Viên ra đây làm
ǵ vậy. Trở về Sài G̣n đi.” Tướng Viên trả lời, “Anh không thể nói
chuyện với một tổng tham mưu trưởng như vậy được.” (Hai ông Viên và
Thi là bạn cùng khóa ở Vũng Tàu với nhau. Tướng Thi nói chuyện như
vậy chắc đang dùng ngôn từ của bạn bè đồng khóa) Tướng Viên ở lại Đà
Nẵng chỉ huy cho đến khi t́nh h́nh miền Trung tạm yên ổn. T́nh trạng
xáo trộn ở Vùng I được coi là chấm dứt khi Hội Đồng Tướng Lănh cho
các sĩ quan liên hệ trong vụ biến động về hưu. Tháng 10-1966, thời
gian này có nhiều tranh chấp đang xảy giữa các sĩ quan gốc Nam, gốc
Bắc trong hội đồng tướng lănh. Sự tranh chấp không chỉ xảy ra trong
giới quân nhân mà c̣n lan ra giới công chức cao cấp hàng tổng bộ
trưởng. Ở hội nghị thượng đỉnh Manila, tháng 10-1966, không biết
chuyện ǵ đă làm cho trung tướng Nguyễn Hữu Có, phó thủ tướng kiêm
tổng trưởng quốc pḥng, “nói đùa” trước các ông Thiệu, Kỳ, Viên, và
đại sứ kiêm phó tổng trưởng ngoại giao Bùi Diễm, là “trở về nước lần
này chúng ta phải lột da Bùi Diễm.” Trong sự yên lặng ngỡ ngàng của
những người có mặt, Tướng Viên lên tiếng, “Ai muốn lột da Bùi Diễm
th́ phải đi qua lữ đoàn Nhảy Dù của tôi.” Theo lời ông Bùi Diễm, áp
lực về sự chia rẽ gốc nam bắc nặng nề đến độ làm ông chán nản, phải
xin đi làm đại sứ để tránh t́nh trạng nhức đầu đó một thời gian.
Tướng Viên là người sẳn sàng “làm” khi đến lúc thấy phải “làm.” Ông
kể cho tôi nghe lư do tại sao ông cố gắng đi học thêm văn bằng văn
chương ở đại học. Ông nói trong thời gian c̣n làm sĩ quan báo chí ở
bộ tổng tham mưu, bài viết nào của ông cũng đều bị một sĩ quan cấp
trên sửa. Ông rất bực ḿnh … và đến gặp người sĩ quan có văn pḥng ở
lầu trên, yêu cầu ông ta đừng sửa bài viết nữa. Nhưng chuyện “bỉnh
bút” vẫn xảy ra sau đó. Tướng Viên nói, ông gặp người đó một lần
cuối, nói rằng ông không chấp nhận chuyện sửa bài như vậy nữa. Tướng
Viên kể, “… và bác chỉ chờ cho chuyện sửa bài xảy ra một lần nữa,
bác sẽ chờ tên đó bước xuống cầu thăng là bác “đục” nó ngay. … Nhưng
may chuyện đó không xảy ra. Sau đó bác muốn đi học thêm để coi ḿnh
có học được như người khác hay không.”
Khi trả lời với tướng Nguyễn Hữu Có như vậy, tướng Viên chấp nhận
hậu quả, hoặc là tồn tại trong hội đồng tướng lănh như một thế lực,
hoặc là bị lưu đày ra khỏi trung tâm quyền lực — nếu không nói là ra
khỏi nước như trường hợp của một số tướng lănh trong giai đoạn
1965-1967. Năm 1965-67, trung tướng Có laø thế lực trong Hội Đồng
Tướng Lănh. Thế lực của tướng Có đáng sợ đến độ hai ông Thiệu, Kỳ
phải t́m cách đưa ông ta ra khỏi Việt Nam: đầu năm 1967, trong khi
tướng Có đi kinh lư ở Đài Loan, khi máy bay đến Hồng Kông, tướng Kỳ
thay mặt hội đồng tướng lănh gởi một điện tín cho tướng Có, không
cho phép ông trở lại Việt Nam. Cùng lúc hội đồng tướng lănh bổ nhiệm
tướng Viên giữ luôn chức tổng trưởng quốc pḥng. Tướng Viên kiêm
nhiệm chức tổng trưởng quốc pḥng và tổng tham mưu trưởng cho đến
tháng 11-1967, khi tướng Nguyễn Văn Vỹ lên thay.
Có người nói tướng Viên an toàn trong hội đồng tướng lănh cho đến
những ngày cuối cùng v́ ông được sự tin tưởng của tướng Thiệu và
tướng Khiêm (cũng như chuyện tướng Viên trở về chỉ huy lữ đoàn Nhảy
Dù là do tướng Khiêm giúp đỡ bổ nhiệm). Chuyện này người viết không
được rơ. Nhưng tướng Viên có nói lúc c̣n là trung úy, ông và đại úy
Thiệu ở chung một nhà khi cả hai đang phục vụ ở tiểu khu Hưng Yên,
Bắc Việt. Ông c̣n nói thêm, “Hai người ở chung một nhà. Phía sau nhà
là một cái ao. Tắm rửa, giặt giũ ǵ cũng đến từ nước trong ao đó …
bây giờ nghĩ lại c̣n rùng ḿnh.” Liên hệ và được sự tin tưởng của
tổng thống Thiệu như thế nào th́ tôi không nghe tướng Viên nói,
nhưng theo những tài liệu Hoa Kỳ đọc được sau này, tướng Viên có
công hàn gắn — dù sự hàn gắn không được lâu dài — những rạn nức giữa
ông Kỳ và ông Thiệu, khi hai người cùng quyết định ra tranh cữ tổng
thống tháng 9-1967. Tướng Viên rất được sự tin tưởng của hai đại
tướng Westmoreland và Abrams, và quan trọng hơn, của đại sứ
Ellsworth Bunker. Trong hồi kư A Soldier Reports, ngoài chuyện nói
về liên hệ chân t́nh giữa hai người, tướng Westmoreland có kể một
câu chuyện vui. Ngày Quân Lực 19 tháng 6-1967, tướng Viên nhảy dù
biểu diễn. Nhưng thay v́ đáp được vào khán đài trước mặt quan khách,
dân chúng ngưỡng mộ … dù của tướng Viên bị gió cuốn và đáp xuống
đường phố Sài G̣n. Gặp tướng Viên, tướng Westmoreland nói đùa, “Ông
quá quan trọng cho quốc gia để tiếp tục chơi tṛ chơi nguy hiểm
này.” Tướng Viên trả lời, “Nhưng phải tiếp tục nhảy saut để nâng cao
tinh thần lính dù.” Sau đó tướng Westmoreland đề nghị tướng Viên
đừng nhảy dù giải trí nữa, ông sẽ cho người dạy tướng Viên lái trực
thăng. Cũng từ đó MACV có chương tŕnh huấn luyện trực thăng cho các
sĩ quan cao cấp VNCH muốn theo học. Nói về chuyện nhảy dù: Đến năm
1960 tướng Viên mới có bằng Dù. Nhưng dù sao bằng Dù của tướng Viên
vẫn “thâm niên” hơn của tướng Thiệu. Năm 1964 tướng Thiệu mới nhảy
saut đầu tiên để được chứng chỉ nhảy dù! Qua sự thân mật của liên
hệ, tướng Viên đốc thúc tướng Westmoreland cấp tốc cung cấp súng
AR-15 (M-16 sau này), đại liên M-60, và phóng lựu M-79 cho quân lực
VNCH. Những thử nghiệm đầu tiên về hàng nhu yếu phẩm bán ở quân tiếp
vụ, thành h́nh cũng nhờ sự hợp tác của MACV và BTTM. Sự liên hệ giữa
tướng Viên và người thừa nhiệm tướng Westmoreland ở MACV cũng thân,
nếu không nói là thân hơn. Tài liệu đến từ quyển The Abrams Tapes
cho thấy sự kính trọng của tướng Abrams — và những sĩ quan trong ban
tham mưu MACV — đối với tướng Viên. Có một lần tướng Abrams tuyên bố
trong một buổi họp về tư cách của tướng Viên, “Tướng Viên chưa bao
giờ nói dối với tôi một chuyện ǵ. Khi không thể nói được th́ ông
nói không nói được. Nhưng khi ông nói một chuyện ǵ rồi, th́ tôi tin
đó là sự thật.” Cũng trong quyển sách về hồ sơ mật của MACV nói
trên, một đôi khi ta thấy được t́nh cảm chân thật giữa hai người sĩ
quan cao cấp, kính trọng nhau, khi một t́nh trạng khó xử xảy ra.
Chuyện xảy ra trong giai đoạn Việt Nam Hóa cuộc chiến. H́nh như
trong nguyên thủy của kế hoạch rút quân, Hoa Kỳ dự định sẽ để lại
một số quân tác chiến để pḥng thủ ở Việt Nam như trường hợp ở Đại
Hàn và Tây Đức. Nhưng không hiểu tại sao kế hoạch bị thay đổi, và
người Mỹ quyết định rút tất cả quân ra khỏi chiến trường. Có lẽ v́
tin theo kế hoạch nguyên thủy của tổng trưởng quốc pḥng Melvin Lair
… tướng Abrams đaơ hứa với tướng Viên tương tự. Nhưng khi kế hoạch
thay đổi từ trên, Abrams không biết phải ăn nói ra sao, giải thích
làm sao cho tướng Viên hiểu. Không biết sau đó tướng Abrams có nói
ǵ với tướng Viên, hay giải quyết như thế nào. Nhưng trong một buổi
họp đầy đũ các tướng lănh tham mưu MACV, tướng Abrams nói: “Tôi vẫn
thường nói, ngày vui nhất của tôi là ngày đại tướng Cao Văn Viên gọi
điện thoại và xài xể tôi. Ngày đó là ngày tôi vui nhất. Nhưng tướng
Viên sẽ không làm chuyện đó; ông ta quá lịch sự. Nhưng tôi muốn ông
ta làm như vậy.” Lời nói chân t́nh của một đại tướng thâm niên đối
với tướng Viên như vậy, đă nói lên tất cả sự kính trọng của tướng
Abrams về tướng Viên. Đại tướng Abrams mang lon thiếu úy năm 1936,
và là đại tướng năm đại tá Viên được thăng cấp tướng.
Trong The Bunker Papers — một tường tŕnh hàng tuần về t́nh h́nh
quân sự chính trị VNCH của đại sứ Bunker, gởi thẳng cho tổng thống
Lyndon Johnson (và tiếp tục gởi cho đến nhiệm kỳ thứ hai của tổng
thống Richard Nixon) — tên của tướng Viên được đại sứ Bunker nhắc
đến nhiều trong năm 1967. Nhất là trong hai, ba tháng trước ngày bầu
cử tổng thống. Trong thời gian này tướng Viên là một conduit giữa
các tướng lănh và ṭa đại sứ, thông báo cho chánh phủ Mỹ biết ư định
của nhóm, hay giải quyết những khó khăn trong vấn đề chỉ huy và điều
khiển giữa hai bộ tư lệnh Việt-Mỹ. Nhưng quan trọng hơn, khi hai ông
Thiệu, Kỳ không nhường nhau và quyết định ra ứng cử tổng thống ở hai
liên danh khác nhau, vai tṛ của tướng Viên trở nên quan trọng.
Tướng Viên có nói với người viết một vài chi tiết về chuyện này. Ông
nói v́ tướng Thiệu thay đổi quyết định liên tục: Ban đầu ông Thiệu
đồng ư đề nghị của hội đồng tướng lănh là ông Kỳ sẽ tranh cử tổng
thống với lá phiếu của quân đội. Sau khi ông Kỳ đắc cữ, ông Thiệu sẽ
trở là tổng tham mưu trưởng kiêm tổng trưởng quốc pḥng. Nhưng hôm
sau ông Thiệu đổi ư, tuyên bố ông sẽ từ chức và tranh cữ như một
thường dân! Tướng Viên, đang là tổng trưởng quốc pḥng và tổng tham
mưu trưởng, phải quyết định. Trước đó tướng Viên (cùng với các tư
lệnh quân đoàn) không những đệ đơn lên ủy ban kiểm soát bầu cử ở
quốc hội không đồng ư cho ông Dương Văn Minh ra ứng cữ, ông c̣n bay
qua Thái Lan gặp mặt tướng Minh (đang bị lưu đày ở Bangkok) để
chuyển đạt ư kiến của hội đồng tướng lănh — một nhóm 50-60 sĩ quan
cao cấp QLVNCH đang đại diện quân đội. Trước sự đổi ư liên tục của
ông Thiệu, thứ Bảy, 1 tháng 7-1967, ông Viên đưa cho ông Thiệu một
tối hậu thư của hội đồng tướng lănh: Ông Thiệu và ông Kỳ sẽ ứng cữ
chung liên danh quân đội, ông Thiệu tổng thống; ông Kỳ phó tổng
thống; ông Kỳ sẽ có toàn quyền bổ nhiệm thủ tướng, hội đồng tổng bộ
trưởng, và các tư lệnh cao cấp của quân đội. Đó là sự nhân nhượng
cuối cùng của ông Kỳ. Theo lời của tướng Viên thuật lại, trung tướng
Nguyễn Đức Thắng là người viết những cam kết đó trên một tờ giấy, và
tướng Viên là người đưa tướng Thiệu tờ cam kết đó. Theo tường tŕnh
của đại sứ Bunker gởi về cho tổng thống Johnson, hội đồng tướng lănh
đi đến quyết định này sau “48 tiếng đồng hồ, trong một căn pḥng đầy
khói thuốc.” Và ông Thiệu chấp nhận quyết định của hội đồng tướng
lănh.
Về liên hệ của tướng Viên và tổng thống Thiệu. Tướng Viên giữ chức
Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, và là đại tướng lâu nhất trong QLVNCH.
Tướng Viên — qua những ǵ đă viết và nói ra — đệ đơn xin từ chức năm
lần từ năm 1969 nhưng tổng thống Thiệu không chấp nhận. Theo tài
liệu giải mật sau này, tổng thống Thiệu muốn thay ông Viên từ năm
1969, nhưng tại sao không thực hiện ư định đó th́ không hiểu được.
Sau vụ bắn lầm vào trường trung tiểu học Phước Đức ở Chợ Lớn ngày 3
tháng 6-1968, gây tử thương một số sĩ quan thân cận với tướng Kỳ,
tổng thống Thiệu nhân dịp đó thay đổi toàn bộ những chức vụ trong
quân đội. Ông Thiệu giữ tướng Viên lại chức tổng tham mưu trưởng chỉ
v́ ông Viên không có tham vọng chính trị và không phải loại tướng
hay làm “làm hoảng.” Hai tác giả, thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh và
chuẩn tướng Trần Đ́nh Thọ, trong The South Vietnamese Society (viết
cho Center of Military, The United States Army), cũng suy luận theo
chiều hướng đó. Điều này cũng phù hợp với một số tài liệu giải mật
về sau. Một tài liệu cho thấy trung tướng Hoàng Xuân Lăm là một nhân
chứng một lần tướng Viên muốn từ chức: Trong một buổi họp quân sự
ngày 9 tháng 3-1971 để quyết định về t́nh h́nh mặt trận Lam Sơn 719,
tướng Lăm xin tổng thống Thiệu cho từ chức v́ sự quản trị và điều
khiển hành quân của ông đối với hai tướng Lê Nguyên Khang (tư lệnh
TQLC) và Dư Quốc Đống (tư lệnh Nhảy Dù) không có hiệu nghiệm … ông
xin được từ chức trở về dân sự. Khi nghe, tướng Viên đề nghị với
tổng thống Thiệu cho tướng Lăm về thay ông ở bộ tổng tham mưu, để
chính ông được trở về … dân sự! Dĩ nhiên tướng Lăm không chịu; ông
Thiệu th́ không muốn thay cả hai! Kết quả buổi họp: Tướng Lăm trở
lại chỉ huy hành quân Lam Sơn 719; tướng Viên bay ra Khe Sanh để
“nhắc” tướng Đống là phải tuân theo hệ thống chỉ huy. Trong tác phẩm
The Abrams Tapes của tác giả Lewis Sorley, có một đoạn nói từ đầu
năm 1969 tướng Abrams đă nghe chuyện tổng thống Thiệu sẽ thay thế
tướng Viên nhiều đến độ ông nói với các sĩ quan tham mưu MACV, “…
khi th́ nghe tướng Lăm sẽ thay, khi th́ tướng Trí sẽ thay … chừng
nào xảy ra th́ tôi mới tin …” Và đó là vào những tháng đầu của năm
1969. Tướng Viên bị giữ lại bộ tổng tham mưu, người viết nghĩ, v́
ông Thiệu không c̣n tin ai hơn tướng Viên. Tin ở đây không có nghĩa
là tin tướng Viên là người trung thành với ḿnh: ông Thiệu tin tướng
Viên là người sẽ không dùng lính để làm ẩu. Ngoài chức vụ TTMT,
tướng Viên không được mời tham dự một hội đồng nào khác của chính
phủ. Một dẫn chứngï: Trong Ủy Ban Điều Hợp T́nh Báo Quốc Gia do
trung tướng Đặng Văn Quang làm chủ tịch (đồng thời là Phụ Tá Đặc
Biệt Quân Sự và An Ninh cho tổng thống), với những ủy viên là đặc ủy
trưởng Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo; chỉ huy trưởng Cục An Ninh Quân
Đội; hai (chỉ huy) Trưởng Pḥng 7 và Pḥng 2, BTTM; và, giám đốc Nha
Kỹ Thuật. Chúng ta không thấy ông tổng tham mưu trưởng có tên trong
danh sách ủy viên. Như tướng Viên đă viết và trả lời một vài phỏng
vấn, ông đệ đơn xin từ chức từ khi biết tổng thống Thiệu muốn t́m
một người khác thay ông từ cuối năm 1969. Khoảng cách giữa người
tổng tham mưu trưởng và vị tổng tư lệnh quân đội càng xa hơn khi
tổng thống Thiệu không c̣n để ư đến hệ thống quân giai, hay quân
phong của quân đội, khi ông ra lệnh hay có liên hệ cá nhân với các
sĩ quan dưới quyền của tướng Viên. Hành động của tổng thống Thiệu đă
làm chính tướng Abrams để ư. Hai lần, cuối năm 1968 và đầu năm 1969,
tướng Abrams nói trong buổi họp … là tướng Lăm liên lạc trực tiếp
với tổng thống về vấn đề hành quân … tướng Đỗ Cao Trí th́ vào dinh
Độc lập ăn cơm với tổng thống một tuần hai, ba lần. Liên hệ như vậy
đặt tướng Viên vào t́nh trạng khó xử. Đầu tháng 5-1972, khi t́nh
h́nh ở Quảng Trị nguy ngập. … tổng thống Thiệu là người trực tiếp
viết quân lệnh cho bộ quốc pḥng và BTTM, ra lệnh bắt chuẩn tướng Vũ
Văn Giai lập tức; và, ra lệnh tướng Lăm xử bắn những quân nhân có
hành vi vô kỷ luật ở Huế. Dĩ nhiên trên cương vị tổng tư lệnh quân
đội, tổng thống Thiệu có toàn quyền ra lệnh như vậy. Nhưng tại sao
không ra lệnh cho BTTM/ tổng tham mưu trưởng thi hành lệnh của ông?
Hành động của tổng thống Thiệu không phải là một thí dụ tốt để duy
tŕ kỷ luật của hệ thống quân giai. Ở đây người viết không có ư định
đào sâu khoảng cách giữa tướng Viên và tổng thống Thiệu. Nhưng đó là
những ǵ đă xảy ra.
Bác Viên hiền và ít nói; ít phê phán lời nói hay hành động người
khác. Có thể trong thời gian biến động của những năm 1964-1967, tánh
yên lặng và “ít có ư kiến” của bác Viên đưa đến sự kính trọng của
những tướng lănh trong hội đồng lănh đạo. Tôi có dịp nghe chuyện đến
từ tác giả viết từ điển Nguyễn Văn Tạo (đă quá cố; tác giả từ điển
Việt-Anh/ Anh-Việt; Việt-Pháp/ Pháp Việt), một người hàng xóm quen
biết của bác Viên ở Vạn Tượng. Bác Tạo gái nói lúc c̣n trẻ bác Viên
nh́n hiền, hiền như kiểu một thầy giáo … khó tưởng tượng sau này ông
ta trở thành một quân nhân chỉ huy lính …
Tôi và anh Lư Thanh Tâm, một sĩ quan trung thành, gặp bác Viên lần
cuối vào ngày thứ Bảy, 8 tháng 12-2007. Bác Viên ngồi trên giường
nói chuyện huyên thuyên … giọng nói vẫn mạnh. Tôi hẹn anh Tâm và bác
sẽ trở lại thứ Tư 12. … Thứ Ba 11 Bác gọi sớm và nói không thể gặp
ngày thứ Tư. H́nh như thứ Bảy 15, nhà làm sinh nhật trể cho bác.
Sáng thứ Ba 22, tám giờ sáng, tôi nhận một mass e-mail của anh Bùi
Mạnh Hùng thông báo bác đă đi. Hơn chín giờ sáng tôi gọi đến nhà cao
niên nơi bác ở để hỏi thăm. … Đầu giây, bác Nguyễn Hữu Bầu nói …
“Bác đang đứng trước xác bác Viên đây …” Tôi nói cảm ơn, rồi gọi cho
bác Đoàn Văn Nu ở Galveston, bác Nguyễn Thu Lương ở Montreal … hai
bác đă đi hành quân với bác Viên từ thời c̣n ở tiểu đoàn 1 Nhảy Dù.
Ngày Chủ Nhật cuối cùng của đám tang bác Viên, đại diện đông đủ quân
binh chủng của quân lực VNCH đến tiễn bác lần cuối. Trung tướng Lữ
Lan và đại tá Hoàng Ngọc Lung có đọc điếu văn. Trong bào điếu văn
của bác Lung, ông nói ra một sự thật mà ông đă giữ kín cho đến ngày
hôm đó: Khi ông Dương Văn Minh lên làm tổng thống, dưới áp lực chính
trị mới — giả định là áp lực của cộng sản Bắc Việt — ông Minh đă có
kế hoạch bắt giữ năm (5) nhân vật đầu năo của BTTM. Đứng đầu danh
sách năm người đó là đại tướng Cao Văn Viên.
Một đôi khi tôi nhớ lại những bữa ăn trưa vào mùa Hè 2002. Nhớ khi
bác Viên hỏi tôi, “Hmmm, hôm nay ai trả tiền ta?” Lúc nào tôi cũng
nói đến lượt tôi trả; và lúc nào ông cũng nói tôi nhớ lầm. Và nếu
may mắn, người chủ quán sẽ nói, “Hôm nay nhà hàng đăi.” H́nh như
người chủ quán là cháu họ của bác Viên.
Nguyễn Kỳ Phong@yahoo.com
Cao Văn
Viên. Đại tướng, tổng tham tham mưu trưởng QLVNCH (1967-1975).
Sanh ngày 11 tháng 12-1921 tại Vạn Tượng, Lào. Tốt nghiệp trường
trung học Pavie, làm huấn luyện thể thao tại một trường trung học
sau khi tốt nghiệp trung học. Bị quân đội Nhật bắt giữ khi chính
quyền Pháp ở Đông Dương thất thủ. Trốn về Việt Nam, theo học trường
sĩ quan Vũng Tàu và ra trường năm 1949. Lần lượt giữ những chức vụ
như sĩ quan pḥng tuyển mộ nhập ngũ, pḥng báo chí bộ quốc pḥng,
trước khi đi thụ huấn khóa chiến thuật để về làm tiểu đoàn trưởng
Tiểu Đoàn 10, năm 1952, ở Bắc Việt. Năm 1954 làm sĩ quan Ban 2, rồi
Ban 4 ở tiểu khu Hưng Yên. Sau Hiệp Định Geneve 1954, rút về miền
Nam, ông được chỉ định coi Tiểu Đoàn 56 để tiếp thu tỉnh Quảng Ngăi.
Năm 1955-56, về làm sĩ quan ở Pḥng 4 BTTM, trước khi được
theo học trường Command and General Staff College ở Fort
Leavenworth, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ, năm 1956-57. Trở lại Việt
Nam, với cấp bực trung tá, ông được vào làm ban tham mưu biệt bộ phủ
tổng thống năm 1959. Tháng 11-1960, sau cuộc đảo chánh thất bại của
nhóm trung tá Vương Văn Đông và đại tá Nguyễn Chánh Thi,
ông được chỉ định thay đại tá Thi làm tư lệnh lữ đoàn Nhảy Dù. Trong
cuộc đảo chánh tổng thống Ngô Đ́nh Diệm của các tướng lănh
vào tháng 11-1963, ông bị tạm giam tại bộ tổng tham mưu v́ không ủng
hộ trung tướng Dương Văn Minh, người lănh đạo cuộc đảo chánh.
Bị mất chức tư lệnh Nhảy Dù tạm thời, nhưng ngay sau đó được phục
hồi. Đầu tháng 1-1964, với cương vị tư lệnh Nhảy Dù, tướng Viên là
thế lực chính phía sau cuộc chỉnh lư hạ bệ tướng Dương Văn Minh.
Tháng 3-1964 được thăng chức thiếu tướng sau khi bị thương khi đích
thân chỉ huy cuộc hành quân nhảy dù vào căn cứ cộng sản ở Giồng Bầu,
Hồng Ngự. Tháng 10-1965 được Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia bổ
nhiệm làm tổng tham mưu trưởng QLVNCH với chức trung tướng.
Trong thời gian biến động của bốn năm 1966-67, tướng Viên tham dự
vào nhiều quyết định quân sự và chính trị trong nội bộ của Ủy Ban
Lănh Đạo Quốc Gia. Tháng 3-1967 tại Hội Nghị Thượng Đỉnh Đảo Guam,
tướng Viên đă đề nghị với tổng thống Lyndon Johnson về một
chiến lược cô lập CSBV, bằng cách lập một hàng rào pḥng thủ dọc
theo vĩ tuyến 17; hoặc là đánh thẳng qua các cơ sở hậu cần của CSBV
ở Hạ Lào và Quảng B́nh-Vĩnh Linh. Phía Hoa Kỳ không chánh
thức trả lời, nhưng tài liệu cho thấy trong năm 1967 đại tướng
William Westmoreland đă ra lệnh cho MACV soạn thảo dự trù
một kế hoạch tấn công qua Lào có tên là Hành Quân El Paso. Năm 1967
một lần nữa ông được sự tin tưởng của hội đồng các tướng lănh là một
sĩ quan không chánh trị khi được thăng chức đại tướng. Vào năm bầu
cữ 1967 ông là sĩ quan đại diện cho Hội Đồng Quân Lực giải
quyết sự bế tắt giữa giữa trung tướng Nguyễn Văn Thiệu và
thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, khi cả hai đều muốn tranh cữ chức
tổng thống trong và dưới sự ủng hộ của liên danh quân đội. Từ năm
1969 trở đi, vai tṛ của tướng Viên như một tổng tham mưu trưởng bị
lu mờ đi khi tổng thống Thiệu bắt đầu trực tiếp điều khiển quân đội
thẳng qua lệnh tổng thống thay v́ qua hệ thống quân giai của BTTM.
Theo những ǵ do đại tướng Viên viết, là ông đă đệ đơn từ chức năm
lần nhưng đều bị tổng thống Thiệu bác đơn. Trong những năm cuối của
VNCH, vai tṛ tổng tham mưu trưởng của đại tướng Viên chỉ c̣n là một
hư vị. Ngày 28 tháng 4-1975 tổng thống Trần Văn Hương chấp
thuận đơn từ chức của tướng Viên. Ông rời chức vụ và Việt Nam một
ngày sau đó.
Tài Liệu: Cao Văn Viên, The Final Collapse (1985); Những Ngày
Cuối Của VNCH (2003); Vietnam: What’s Next? The Strategy for
Isolation (1972); Lewis Sorley, Vietnam Chronicles: The Abrams
Tapes, 1968-1972 (2004).
[Trích trong Từ Điển Chiến Tranh Việt Nam của Nguyễn Kỳ
Phong] |