ĐẠI TƯỚNG CAO
VĂN VIÊN
VÀ NHỮNG NGÀY CUỐI CỦA VIỆT NAM CỘNG H̉A
Giao Chỉ
(Gửi đến
độc giả nhân tin đại tướng mới qua đời vào ngày 22 tháng 1 năm 2008)
Suốt
33 năm qua, quân dân miền Nam đă trải qua các hoàn cảnh bi đát đau
thương và luôn luôn tự hỏi về nguyên nhân thất bại mau chóng của
VNCH trong những ngày của tháng 4-1975.
Đại tướng Cao Văn Viên năm nay 86 tuổi, trước khi qua đời đă sống
hoàn toàn cô đơn trong một viện cao niên tại miền Đông Hoa Kỳ, cũng
có các suy tư khắc khoải của riêng ông.
Trong phần Lời Bạt của một tác phẩm xuất bản 2003, vị Đại Tướng Tổng
Tham Mưu Trưởng cuối cùng của Quân lực VNCH đă giăi bày rất nhiều
điều quan trọng: Về vai tṛ của ông và nhiệm vụ của Bộ Tổng Tham
Mưu. Sự liên hệ cá nhân giữa Tướng Cao Văn Viên và Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu. Tại sao ông xin từ chức và tại sao Tổng thống Thiệu không
chấp thuận. Những diễn tiến quân sự liên quan đến việc di tản Quân
Đoàn II và Quân Đoàn I.
Ông cũng viết về việc chuẩn bị thuốc độc cho chính ḿnh và sau cùng
ông đă ra đi vào lúc nào.
Phần quan trọng là Đại tướng Cao Văn Viên bác bỏ một số tin tức liên
quan đến ông và Bộ Tổng Tham Mưu trong một tác phẩm đă được Tiến sĩ
Nguyễn Tiến Hưng, vị cố vấn đặc nhiệm của ông Thiệu xuất bản gần 25
năm về trước.
Để có thể theo dơi dễ dàng những diễn tiến theo thời gian, chúng tôi
xin liệt kê tài liệu thứ tự như sau:
Thứ nhất: Ngay sau khi miền Nam thất thủ 1975, bắt đầu từ năm
1976, Trung Tâm Quân Sử của Lục Quân Hoa Kỳ đă mời các sĩ quan cao
cấp của Việt – Miên – Lào viết về kinh nghiệm của cuộc chiến Đông
Dương. Đại tướng Cao Văn Viên cùng 5 vị tướng và Đại Tá VNCH đă hoàn
tất 16 tác phẩm bằng Anh ngữ về các đề tài khác nhau. Trong đó có
cuốn the Final Collapse ấn hành năm 1983. Tài liệu biên khảo vào
thời gian 1976 hoàn toàn có tính cách nghiên cứu các diễn tiến,
nhưng chưa đủ các dữ kiện đầy đủ như hiện nay. Trong đó tác giả ghi
rằng không muốn nói nhiều đến chuyện cá nhân. Cuốn The Final
Collapse nguyên tác Anh ngữ phổ biến hạn chế và chưa từng dịch ra
Việt ngữ.
Thứ hai: Khởi sự từ năm 1977, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nguyên
là cố vấn đặc biệt của Tổng thống Thiệu bắt đầu soạn tài liệu để
hoàn tất tác phẩm the Palace File. Chủ đề của tác phẩm viết về những
năm cuối cùng tuyệt vọng của Việt Nam Cộng Ḥa. Tác giả viết bằng
các dữ kiện trực tiếp ghi nhận được qua vai tṛ giao thiệp với chính
phủ Mỹ và các bức thư trao đổi với các Tổng Thống Hoa Kỳ liên quan
đến cuộc chiến Việt Nam.
Trong tác phẩm này Tiến sĩ Hưng có đề cập đến nhiều giới chức gồm cả
Bộ Tổng Tham Mưu và Đại tướng Cao Văn Viên, The Palace File nguyên
tác Anh ngữ xuất bản năm 1986 và ấn bản Việt ngữ xuất bản năm 1987.
Có một số dữ kiện trong tác phẩm này cũng cần phải được duyệt lại v́
thực sự tác giả hoàn tất vào đầu thập niên 80 nên không đủ các tin
tức như hiện nay.
Cuốn Palace File bản Anh ngữ và Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập bản Việt ngữ
được phát hành tương đối rộng răi và đă phổ biến những điều mà Đại
tướng Cao Văn Viên cho là không đúng và ông ghi nhớ từ 17 năm qua.
Thứ ba: Cho đến năm 2003, Đại Tướng giao cho một chuyên viên
sử học là ông Nguyễn Kỳ Phong chuyển ngữ cuốn The Final Collapse
thành tác phẩm Việt ngữ với tựa đề Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng
Ḥa.
Trong tác phẩm Việt ngữ vừa phát hành này có nhiều ghi chú đặc biệt
của dịch giả và của chính tác giả nhằm làm sáng tỏ những điểm mà
nguyên tác The Final Collapse năm 1976 chưa đề cập đến.
Và đặc biệt là những lời đính chính mạnh mẽ của tướng Cao Văn Viên
liên quan đến The Palace File của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng mà ông đă
lưu tâm từ năm 1986 khi sách này phát hành.
* * *
Đại tướng Cao Văn Viên nguyên là Tư Lệnh Nhảy Dù, Tư Lệnh Quân Đoàn
III và chức vụ sau cùng là Tổng Tham Mưu Trưởng. Có lúc ông kiêm cả
Tổng Trưởng Quốc Pḥng. Vợ của ông đă qua đời nhiều năm trước. Ông
có người con gái là giáo sư luật khoa Lan Cao đă thành danh và có
gia đ́nh riêng. Ông sống một ḿnh trong viện cao niên tại miền Đông.
Tuy sức khỏe suy yếu nhưng tinh thần vẫn minh mẫn và c̣n giọng nói
vẫn mạnh mẽ khi chúng tôi có dịp diện kiến năm 2005. Tướng Cao văn
Viên mới qua đời ngày 22 tháng 1-2008 tại Thủ đô Hoa thịnh đốn,
hưởng thọ 86 tuổi.
Dịch giả Nguyễn Kỳ Phong được ông Cao Văn Viên tin cậy giao cho việc
chuyển ngữ cuốn The Final Collapse là một chuyên viên sử học tại Hoa
Kỳ. Hơn 30 năm trước ông là một sinh viên trẻ, có thể chưa biết
nhiều về cuộc chiến và VNCH. Nhưng suốt thời gian tại Hoa Kỳ ông đă
nghiên cứu và đọc hầu hết các tài liệu về chiến tranh Việt Nam bằng
Anh ngữ và Việt ngữ. Ông Phong sưu tầm các tác phẩm, hồi kư đă xuất
bản và cả các tài liệu phổ biến hạn chế trong các thư khố đặc biệt
của Hoa Kỳ liên quan đến Việt Nam.
Năm 2001, Nguyễn Kỳ Phong đă xuất bản tác phẩm đặc biệt tựa đề:
Người Mỹ và chiến tranh Việt Nam. Một cuốn sách làm ngạc nhiên độc
giả lưu tâm đến đề tài này về sự uyên bác của tác giả.
Sau đây là phần trích dẫn từ tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên đối
với những sự kiện chưa từng được nói tới 30 năm qua.
Theo nguyên văn tài liệu, danh từ tác giả ở đây thay cho chữ tôi và
xin hiểu đây là Đại tướng Cao Văn Viên.
1.
Trước hết về vấn đề đại tướng Cao Văn Viên xin từ chức Tổng tham mưu
trưởng. Ông viết như sau:
Đại tướng Cao Văn Viên: Trong những năm 1970 và 1971, tác giả
đă đệ đơn xin Tổng thống Thiệu cho về hưu ít nhất là 3 lần. Lư do là
v́ tác giả đă ở chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng quá lâu đă đủ thâm niên
quân vụ cùng sức khỏe kém. Lư do tác giả hành động như vậy v́ vào
khoảng giữa năm 1970, sau một buổi họp với Đại tướng Creighton
Abrams (tư lệnh MACV) ông ta cho biết, theo tin Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ,
Tổng thống Thiệu có ư định cho Trung tướng Đỗ Cao Trí thay thế tác
giả. Chờ đợi măi không thấy lệnh thay thế, tác giả cảm thấy ḿnh
không c̣n được “sủng ái” nên đă xin về hưu.
Trong thời điểm đó, các đối lập chính trị và tay chân thân tín của
họ bị loại hay vô hiệu hóa. Với đa số dân biểu, nghị sĩ thân chánh
quyền trong Quốc Hội cùng sự thành lập đảng Dân Chủ, ông Thiệu ở vào
thế mạnh. Ngoài ra một số phụ tá trẻ của ông nêu ư kiến nên thay thế
các phần tử mà họ cho là già nua và quan liêu. Họ thường nói, muốn
có một căn nhà tốt cần thay thế các viên gạch cũ hay các bộ phận vô
dụng, và nếu cần, hủy bỏ luôn căn nhà cũ.
* * *
2. Trải
qua nhiều năm, vẫn một câu hỏi được nêu lên là tại saoTổng Thống
Thiệu lại không cho phép đại tướng Viên từ nhiệm, chính ông Cao Văn
Viên cũng tự hỏi như vậy.
Đại tướng Cao Văn Viên: Tại sao ông Thiệu không thay
tác giả như đă có ư định? Có thể ông Thiệu nghĩ rằng tác giả không
có tham vọng chính trị, và trong quá khứ không phản ông Diệm nên cố
giữ lại để có sự ổn định trong quân đội. Nhưng những ǵ tác giả nghĩ
chỉ là giả thuyết mà thôi. Ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, ở vào một
hoàn cảnh mập mờ, tác giả không thể nào hăng say phục vụ như trước
nữa. Nhưng v́ lương tâm nghề nghiệp, tác giả vẫn làm việc như
thường, chờ ngày thay thế.
* * *
3.
Trong tác phẩm của ông, đại tướng Cao Văn Viên có dành 1 phần giải
thích về nhiệm vụ của bộ tổng tham mưu đặc biệt là lănh vực điều hợp
các quân đoàn trên lư thuyết. C̣n trên thực tế ông giải thích thêm
bắt đầu từ thời điểm 1973 như sau.
Đại tướng Cao Văn Viên: Khi Hiệp Định Ba Lê 1973 được kư kết,
quốc sách “Bốn Không” ra đời, lúc mà tất cả hoạt động quân sự có ảnh
hưởng đến chính trị, th́ các buổi họp bất thường hay hàng tháng với
các tư lệnh Quân Đoàn, Quân Khu, cùng với các tư lệnh Binh Chủng như
Không Quân và Hải Quân... được diễn ra trong Dinh Độc Lập, thay v́ ở
Bộ Tổng Tham Mưu như thường lệ. Buổi họp được đặt dưới quyền chủ tọa
của Tổng thống Thiệu như là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa. Từ đó Tổng thống Thiệu hoàn toàn lấy mọi quyết định,
và ra lệnh thẳng cho các nơi. Như vậy, Tổng thống Thiệu đă đạt được
thế thượng phong tuyệt đối, tập trung mọi quyền Hành Pháp, Lập Pháp
và quân đội vào một mối duy nhất.
* * *
4. Viết
về những ngày bi thảm của tháng 4-1975 cho đến khi đại tướng Dương
Văn Minh lên nhận chức, tướng Cao Văn Viên cho biết.
Đại tướng Cao Văn Viên: Sau cuộc rút lui thất bại ở quân đoàn
II và quân đoàn I, và khi t́nh h́nh quân sự trở nên bi đát, tác giả
có xin bác sĩ Phạm Hà Thanh (Cục Trưởng Cục Quân Y) thuốc độc (loại
Cyanid), v́ biết chắc chắn nếu bị bắt sẽ bị cộng sản hành hạ một
cách tàn bạo. Bác sĩ Thanh sau khi đi cải tạo về, hiện nay vẫn c̣n
sống ở ngoại ô Sài G̣n.
Tối Chủ Nhật 27 tháng 4, sau khi Quốc Hội biểu quyết trao quyền lại
cho ông Dương Văn Minh, v́ thời gian quá gấp rút, theo hệ thống quân
giai, tác giả tŕnh miệng với Trung tướng Trần Văn Đôn, đang là Tổng
Trưởng Quốc Pḥng trong Nội Các của Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, tŕnh
lên Tổng thống Trần Văn Hương nguyện vọng được về hưu của tác giả đă
xin từ năm năm về trước. Tổng thống Hương biết rơ chuyện này nên đă
kư sắc lệnh cho tác giả về hưu. Ông Nguyễn Thạch Vân, phụ tá tổng
thống, hiện đang sống bên Pháp, biết rơ chuyện này.
Tác giả không hợp tác với tướng Minh v́ ông ta có ư định giết tác
giả trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11-1963. Tác giả cũng không
thể phục vụ cho một chính phủ liên hiệp, và lư do quyết định nhất là
đă ở chức vụ này quá lâu (gần 10 năm), sức khỏe kém và đă xin về hưu
3 lần rồi. Khi biết đă được phép giải ngũ, tác giả liên lạc với
Pḥng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ (DAO) để xin di tản ra Đệ Nhất Hạm
Đội.
* * *
5. Đề
cập đến chuyện cũ, đại tướng Viên nói về thời gian gặp tướng Minh
trong kỳ đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 như sau.
Đại tướng Cao Văn Viên: Trưa ngày 1 tháng 11-1963, khi tŕnh
diện Tổng Bộ Tham Mưu (BTTM) để nhận lệnh hành quân (lúc đó tác giả
là Đại Tá, Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù) tác giả được đưa lên gặp tướng
Dương Văn Minh thay v́ tướng Trần Thiện Khiêm (Tham Mưu Trưởng Liên
Quân) như thường lệ.
Tướng Minh hỏi: “Tụi Moi đảo chánh, Toa nghĩ sao?”
Tác giả trả lời: “Đảo chánh là một quốc gia đại sự, sao tới giờ phút
này Trung Tướng mới cho tôi hay?”
Đó là nguyên văn câu hỏi và câu trả lời, không hơn không kém. Trong
khi đó, một sĩ quan tùy viên của tướng Minh chĩa súng Carbine vào
lưng tác giả. Vài phút sau, Đại tá Đỗ Mậu (Giám Đốc An Ninh Quân
Đội) kêu tác giả lên đài phát thanh tuyên bố theo phe đảo chánh. Tác
giả trả lời là không có ǵ để tuyên bố cả. Tác giả bị giam giữ tại
BTTM và chỉ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc nhờ cảm t́nh của một số
Tướng Tá (theo phe đảo chánh) và sự can thiệp của vợ ḿnh.
* * *
6. Nói
đến liên hệ của ông với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, tướng Cao Văn
Viên nhắc lại giai đoạn 1974 và 1972 như sau:
Đại tướng Cao Văn Viên: Hai năm 71 – 72 là khúc quanh quan
trọng trong đời sống quân ngũ của tác giả. Như đă nói phần trước,
tác giả đă xin Tổng thống Thiệu về hưu ba lần nhưng không được nên
phải làm việc như thường tuy kém phần hăng say như năm năm về trước.
Vai tṛ của BTTM vẫn không thay đổi trong thời gian này.
Cuối năm 1971 là năm bầu cử Tổng Thống. Lần này Tổng thống Thiệu ra
ứng cử với ông Trần Văn Hương. Các liên danh khác bị loại ra v́
không đủ điều kiện ấn định bởi luật bầu cử, nên báo chí rêu rao đây
là màn “độc diễn” của Tổng thống Thiệu.
Trước ngày bầu cử, sau một buổi họp quân sự với các Tư lệnh Quân
Đoàn, Tư lệnh các Quân chủng Không và Hải quân, TTMT, và Tổng trưởng
Quốc pḥng Nguyễn Văn Vỹ, Tổng thống Thiệu hỏi các tướng lănh về
cuộc bầu cử sắp tới. Các tướng lănh có mặt đều nhiệt liệt ủng hộ
liên danh Thiệu – Hương. Khi được hỏi, tác giả trả lời là Tổng Thống
đă có quyết định, nên không có ư kiến ǵ thêm.
* * *
7. Một
trong các vấn nạn then chốt của việc sụp đổ nhanh chóng tháng 4-1975
là vấn đề quân viện và nhu cầu tái phối trí các đơn vị. Trong chức
vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, Đại tướng Cao Văn Viên có viết lại
như sau:
Đại tướng Cao Văn Viên: Vào khoảng tháng 1-1974, Bộ Tổng Tham
Mưu được phía Hoa Kỳ thông báo viện trợ quân sự trong tài khóa 74 –
75 bị cắt giảm 300 triệu Mỹ kim. Tổng Cục Tiếp Vận phụ trách việc
cung cấp quân trang, quân dụng, xe cộ, vũ khí và đạn dược cho toàn
thể quân lực VNCH đă nghiên cứu một kế hoạch để đối phó với t́nh
h́nh mới. Một cách tổng quát, kế hoạch nhận định là, chương tŕnh
quân viện bị cắt giảm chỉ có thể thỏa măn một quân đội với số quân
ít hơn; và số quân đó chỉ có khả năng pḥng thủ một lănh thổ tương
xứng của VNCH mà thôi.
Kế hoạch này rất hợp lư trên thực tế. Nhưng Tổng thống Thiệu, với tư
cách Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực VNCH, đă đề ra đường lối quốc gia
“Bốn Không” (một trong nhũng cái không đó là không cắt đất cho cộng
sản). Thấy kế hoạch của Tổng Cục Tiếp Vận trái với quốc sách trên
nên tác giả không chỉ thị tŕnh lên Tổng Thống một cách chính thức.
Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Liên Quân kiêm Tổng Cục
Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, được phép tŕnh miệng kế hoạch trên cho
Tổng Thống. Theo lời tướng Khuyên tŕnh lại, sau khi nghe thuyết
tŕnh, Tổng Thống Thiệu không có chỉ thị ǵ thêm, và Tổng Thống cũng
không có chỉ thị nào trực tiếp cho tác giả. V́ những lư do trên, kế
hoạch bị bỏ qua một bên.
* * *
8. Tiếp
theo, Đại tướng Viên viết thêm trong trang 130 gồm cả phần chú
thích. Ông cho biết:
Đại tướng Cao Văn Viên: Tổng thống Thiệu b́nh thản tiếp tục
độc thoại về chính trị địa lư của miền Nam, nhưng khi nói đến Vùng I
và II, ông không tỏ vẻ lạc quan hay tự tin. Chỉ vào vùng Cao Nguyên
trung phần, Tổng thống Thiệu nói Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai
tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại, v́ tài nguyên và dân số của Ban Mê
Thuột. Miền duyên hải của Vùng II cũng quan trọng với tiềm năng dầu
hỏa chứa đựng ở thềm lục địa. Về Vùng I, ư kiến của Tổng thống Thiệu
là “giữ được phần nào th́ giữ.” Ông phác họa kế hoạch pḥng thủ ở
Vùng I bằng những tuyến cắt ngang duyên hải từ Bắc xuống Nam. Nếu
chúng ta có đủ lực lượng, Tổng thống Thiệu nói, chúng ta sẽ giữ đến
Huế và Đà Nẵng. Nếu không được, chúng ta sẽ tái phối trí quân lại ở
Chu Lai, hay thấp hơn là Tuy Ḥa. Kế hoạch này, Tổng thống Thiệu nói
tiếp, cho chúng sắp đặt lại khả năng để có nhiều hy vọng giữ được
những vùng đất quan trọng cho miền Nam trường tồn như một quốc gia
vững mạnh.
Sau này tác giả mới biết, trước buổi họp ngày 11 tháng 3-1975 tại
Dinh Độc Lập, Tổng thống Thiệu đă có trong tay 3 đề nghị về việc
này: Đề nghị số 1 vào năm 1974, tướng Đồng Văn Khuyên, tham mưu
trưởng liên quân kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, đệ tŕnh
lên Tổng Thống ư niệm phải thu hẹp lănh thổ VNCH thế nào tương xứng
với sự cắt giảm viện trợ quân sự như chúng ta đă thấy. Thứ 2: Thiếu
tướng John Murray thuộc pḥng tùy viên quốc pḥng Hoa Kỳ (Defense
Attache Office-Vietnam) có cung cấp cho Tổng thống Thiệu qua Ṭa Đại
Sứ Mỹ một sơ đồ tương tự như Tổng Cục Tiếp Vận đề nghị. Thứ 3: Chuẩn
tướng Úc Đại Lợi Ted Sarong cũng đề nghị qua một giới chức Phủ Tổng
Thống một kế hoạch tương tự.
* * *
9. Sau
đây là đoạn quan trọng nhất Đại tướng Viên kể lại những quyết định
lịch sử của hội nghị cao cấp nhất tại Dinh Độc Lập vào ngày 13 tháng
3-1975 về việc tái phối trí:
Đại tướng Cao Văn Viên: Như thường lệ, Tổng thống Thiệu chủ
tọa buổi họp dưới sự có mặt của Thủ tướng Khiêm, tác giả, và Trung
tướng Đặng Văn Quang. Sau khi tướng Trưởng chấm dứt tường tŕnh về
t́nh h́nh Vùng I, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Vùng III,
được mời vào báo cáo vùng trách nhiệm của ông. Theo tướng Toàn, t́nh
h́nh Vùng III tương đối yên tĩnh, không có biến chuyển quan trọng
xảy ra.
Sau tướng Trưởng và Toàn, đến lượt Tổng thống Thiệu lên tiếng. Ông
phân tích t́nh h́nh chung và những khó khăn VNCH đối đầu về vấn đề
quân viện. Tổng thống Thiệu thú nhận ông không tin Hoa Kỳ sẽ can
thiệp dù cho CSBV mở cuộc tổng tấn công vào miền Nam. Ông tỏ ư thông
cảm về t́nh trạng thiếu thốn, khó khăn ở các quân đoàn. Ông cho biết
trong thời gian gần đây ông ra nhiều quân lệnh nhưng ông biết các tư
lệnh gặp nhiều khó khăn khi thi hành.
Trong hoàn cảnh như vậy, Tổng thống Thiệu tuyên bố, quân đội không
thể làm ǵ khác hơn là thay đổi chiến lược, tái phối trí lực lượng
để giữ các vùng đất ph́ nhiêu, có tài nguyên. Nếu chúng ta phải bỏ
một số rừng núi cho cộng sản để giữ lại lănh địa màu mỡ, nhiều
khoáng sản gồm có thềm lục địa, th́ chúng ta cũng chấp nhận. Thà vậy
hơn là đứng chung một chánh phủ liên hiệp với cộng sản. Vùng đất mà
Tổng thống Thiệu nói đến là Đà Nẵng. Về vấn đề tái phối trí quân –
chuyện này tự Tổng thống Thiệu nghĩ ra một ḿnh, chưa hề tiết lộ
trong một buổi họp nào – Sư đoàn Nhảy dù sẽ rời Vùng I, theo sau là
Sư đoàn TQLC, nếu t́nh h́nh pḥng thủ của Vùng I không bị ảnh hưởng
khi hai đơn vị trên rút đi. Rút hai đơn vị trên khỏi Vùng I cho phép
quân đội tái lập lại các lực luọng tổng trừ bị. Cùng với những cuộc
rút quân khỏi Vùng I, Tổng thống Thiệu cho phép tướng Toàn rút quân
khỏi An Lộc, và sử dụng lực lượng đó vào những kế hoạch pḥng thủ
nơi nào cần nhất ở Vùng III.
Sau khi Tổng Thống chấm dứt th́ đến lượt tác giả. Với tư cách Tổng
Tham Mưu Trưởng, tác giả nhắc các tư lệnh quân đoàn phải cẩn thận
khi rút quân. Buổi hợp ngày 13 tháng 3 chấm dứt sau ba tiếng rưỡi
đồng hồ, mặc dù các tham dự viên đă không bàn căi dài ḍng.
Như vậy buổi hợp ở Dinh Độc Lập vào ngày 13 tháng 3-1975 đă được
thuật lại rơ ràng ở trên. Trong dịp đó Tổng thống Thiệu đă cho hai
vị tư lệnh quân đoàn I và III (tướng Trưởng và tướng Toàn) biết ư
định sắp xếp lại lănh thổ VNCH sao cho phù hợp với sự cắt giảm viện
trợ quân sự. Tuy nhiên, Tổng thống Thiệu chưa cho lệnh rút quân ở
bất cứ nơi nào vào lúc đó, trừ việc bỏ An Lộc ở Vùng III. Buổi họp ở
Cam Ranh ngày 14 tháng 3 xảy ra sau khi Ban Mê Thuột mất, và tại Cam
Ranh Tổng thống Thiệu ra lệnh tái phối trí lực lượng của Quân đoàn
II để chiếm lại Ban Mê Thuột.
* * *
10.
Đoạn sau đây Đại Tướng nói rơ thêm về việc ông được phép từ chức và
ra đi:
Đại tướng Cao Văn Viên: Trước khi từ chức, Tổng thống Trần
Văn Hương đă kư một sắc lệnh giải nhiệm tác giả chức vụ Tổng Tham
Mưu Trưởng. Trong khi chờ đợi tân Tổng thống Dương Văn Minh chính
thức bổ nhiệm Tổng Tham Mưu Trưởng mới, tác giả chỉ định Trung tướng
Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng BTTM, xử lư thường vụ chức Tổng
Tham Mưu Trưởng. Sau đó tác giả được di tản ra Hạm Đội 7 vào trưa
thứ Hai, 28 tháng 4-1975.
* * *
11. Sau
cùng một trong các chi tiết rất nhỏ nhưng có thể rất quan trọng giữa
2 cuốn sách xuất bản cách nhau 17 năm chúng tôi xin ghi lại:
Trong cuốn hồ sơ dinh Độc Lập trang 557 tác giả Nguyễn Tiến Hưng đă
viết về buổi họp các tướng lănh với tổng thống Thiệu (nguyên văn)
như sau khi ông đề cập đến vấn đề tín nhiệm.
Thiệu kể lại rằng không có một ai nói một lời và như vậy là đă rơ là
họ không muốn ông ngồi lại ghế tổng thống nữa. Giữa lúc đó Thiệu
tuyên bố từ chức và để phó Tống Thống Trần Văn Hương lên làm tổng
thống. Tướng Cao Văn Viên theo Thiệu về văn pḥng nước mắt chảy
quanh và nói: Thưa tổng thống, tôi không bao giờ nghĩ sẽ có ngày hôm
nay.
Đại tướng Cao Văn Viên rất bất b́nh về đoạn văn ngắn ngủi này. Sự
thực do ông Thiệu kể lại cho ông Hưng ra sao, câu trả lời đă đem
xuống thuyền đài.
17 năm sau khi những trang sách của ông Hưng được in ra. Trong cuốn
sách xuất bản năm 2003, phần ghi chép của trang 219, đại tướng Cao
Văn Viên viết nguyên văn như sau: “tác giả (tức đại tướng Viên ghi
chú của người dẫn) nhớ rơ ràng, sau buổi họp tác giả ra về ngay
không theo tổng thống Thiệu về pḥng làm việc của ông ta. Đây là lần
chót tác giả gặp ông Thiệu trước khi mất nước. Tác giả không khi nào
rưng rưng nước mắt và nói không thể tưởng tượng có thể xảy ra ngày
hôm nay.
Đây chỉ là chuyện của ông Nguyễn Tiến Hưng viết trong The Palace
File. Mối liên quan giữa tác giả và Tổng thống Thiệu hoàn toàn đặt
trên căn bản quân vụ, nên không có những giờ phút cởi mở tâm t́nh.
* * *
Qua các tài liệu trích dẫn được tŕnh bày, chúng tôi muốn ghi lại và
gửi đến quư vị các nét chính của lịch sử đă diễn ra qua các nhân vật
khác nhau về những ngày cuối của VNCH.
Mỗi ngày trôi qua, chúng ta có thể quên dần chuyện cũ, nhưng các dữ
kiện mới lại xuất hiện. Càng nhiều tin tức th́ sự suy luận lại phải
thêm dè đặt. Chúng tôi xin ghi lại các tin tức lấy từ tài liệu được
chính thức xuất bản của các tác giả để chúng ta cùng suy ngẫm. Chân
lư trong lịch sử sẽ chẳng bao giờ toàn vẹn và sự lên tiếng muộn màng
của Đại tướng Cao Văn Viên có thể sẽ là lời nói sau cùng về những
nỗi bất b́nh mà ông cảm nhận từ nhiều năm nay cần được giải tỏa. Có
lẽ tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng cũng cần xem lại để phân biệt những ǵ
ông trực tiếp nh́n thấy, với những ǵ ông nghe nói lại dù là nghe
được từ Tổng Thống về những giọt nước mắt mà Đại tướng Cao Văn Viên
chia sẻ với Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu. Đôi khi những chuyện nhỏ
như vậy có xảy ra hay không, cũng là những chi tiết quan trọng của
lịch sử.
Giao Chỉ
|