| 
 Kư sự về Lê 
Hằng Minh: Một thời để nhớ ... 
 
Ngọc Thủy 
 
 Viết về Cố Trung Tá Lê 
Hằng Minh 
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 / Thủy Quân Lục Chiến 
 
Gươm đàn nửa gánh, 
Non sông một chèo 
(Nguyễn Du) 
 
Đất nước Việt đang thời binh biến, Tổ quốc lâm nguy, vang dậy núi sông những lời 
hiệu triệu anh hào. Khi tôi chưa chào đời th́ vào giữa năm 1954, theo đoàn người 
trai quyết xếp bút nghiên để lên đường theo tiếng gọi non sông, làm tṛn trách 
nhiệm người công dân trong thời quê hương khói lửa. Người thanh niên tên Lê Hằng 
Minh đă từ giă người mẹ hiền, rời bỏ cuộc sống gia đ́nh ấm êm nơi Hàng Keo - Gia 
Định, từ giă mái trường Huỳnh Khương Ninh & Trương Vĩnh Kư sau khi tốt nghiệp Tú 
Tài để cùng người anh Lê Minh Đảo (thiếu tướng Lê Minh Đảo gia nhập khóa 10 
trường Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt, là một trong số những tướng lănh của Quân đội 
Việt Nam Cộng Ḥa), lên đường nhập ngũ. Ông theo học khóa 5 Liên Trường Vơ Khoa 
Thủ Đức (Khóa V́ Dân) và sau khi ra trường vào đầu năm 1955 với cấp bậc Thiếu Úy 
Trừ Bị, người chiến sĩ Lê Hằng Minh đă cùng bao chiến hữu khác ngược xuôi khắp 
nẻo đường đất nước, xông pha vào những trận tuyến ngăn giữ bước quân thù xâm 
lăng, hầu mong mang yên vui cho mảnh đất miền Nam Tự Do thân yêu. Đầu năm 1957, 
v́ muốn vẫy vùng ngang dọc hơn cho thỏa chí tang bồng, ông rời khỏi Sư đoàn 4/ 
Bộ binh dă chiến (sau này là Sư đoàn 7/ BB) để t́nh nguyện gia nhập Thủy Quân 
Lục Chiến, Lực lượng Tổng Trừ Bị ṇng cốt của Quân đội VNCH và lần lượt đảm 
trách các chức vụ: Trưởng Ban 5 TQLC, Trung đội trưởng (Tiểu đoàn 1), Đại đội 
trưởng (Tiểu đoàn yểm trợ), (Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4), Chiến đoàn phó 
(Chiến đoàn A) và Tiểu đoàn trưởng (Tiểu đoàn 2/ TQLC). 
Tham dự nhiều chiến dịch quan 
trọng cùng những trận đánh hào hùng trên khắp các mặt trận chiến trường đất nước 
từ: Đồng Xoài, U Minh, Bời Lời, Đầm Dơi, Bến Cát, Đức Cơ, Plei-me, B́nh Định, 
Bồng Sơn - Tam Quan, Quảng Ngăi, Thừa Thiên, Huế, Phù Lưu, Quảng Trị v.v... Với 
những thành tích chiến đấu dũng cảm, Lê Hằng Minh được thăng cấp Trung úy sau 
hai năm ra trường và được gởi đi du học khóa Sĩ quan TQLC ở Quantico - Hoa Kỳ 
năm 1959 - 1960. Đầu năm 1959, Lê Hằng Minh đưa Đại đội Trinh Sát TQLC/ Tân Lập 
về Sài G̣n tham dự khóa học Nhảy dù ở Trung tâm Huấn luyện Hoàng Hoa Thám tại Bà 
Quẹo. Trong thời gian huấn luyện này, ông chứng tỏ sự gan dạ và là một cấp chỉ 
huy gương mẫu, xứng đáng làm gương và hướng dẫn quân nhân thuộc quyền noi theo 
không nề hiểm nguy. Yêu thích đường bay trên những nấc thang mây thênh thang của 
người lính Nhảy Dù, Lê Hằng Minh luôn hănh diện khi chỉ cho mọi người xem huy 
hiệu “Cánh Dù” luôn gắn trên túi áo ngực mà ông đă đạt được sau khóa huấn luyện. 
Trong biến cố 11/11/60, ông cùng Đại Đội Chiến Đấu/ TQLC về giải vây cuộc đảo 
chánh Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Sau đó, năm 1960 ông giữ chức vụ Tiểu đoàn 
trưởng Tiểu đoàn Yểm trợ tiếp vận/ Thủy Quân Lục Chiến. Và rồi nổi trôi theo vận 
hạn quốc gia cùng t́nh h́nh đất nước rối ren, thêm một lần nữa, vị Tiểu đoàn 
trưởng Lê Hằng Minh của TĐ4/TQLC lại là một trong những đơn vị tham gia cuộc đảo 
chánh Tổng thống vào ngày 1/11/63. Những biến cố đất nước cùng những thăng trầm 
của cuộc đời binh nghiệp vẫn không làm mất đi tinh thần quả cảm của một người 
chiến sĩ với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ cùng tinh thần trách nhiệm đối với 
đồng bào Tổ quốc, ông vẫn cùng với bao lớp người thanh niên chiến hữu luôn giữ 
vững sự cang cường chiến đấu như ánh thép gươm đao vẫn lóe sáng mỗi khi lâm trận 
ngoài địa đầu giới tuyến. Sau khi tu nghiệp khóa AWS ở Hoa Kỳ về (1964 - 1965), 
đầu tháng 11/1965, Thiếu tá Lê Hằng Minh được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng TĐ2/ 
TQLC và tên tuổi ông đă gắn liền với danh hiệu “Trâu Điên”, một tiểu đoàn lừng 
danh của Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói riêng và của Quân đội Việt Nam Cộng 
Ḥa nói chung từ trận đánh An Quư vào tháng 2/1966 ở Bồng Sơn - Tam Quan. Từ tư 
thế bất ngờ bị phục kích khi tiến chiếm mục tiêu ấp chiến lược này, dù bị bao 
vây tứ phía bởi sự bố trí sẵn bên ngoài lẫn sự pḥng thủ rất mạnh của VC bên 
trong, bị bắn phá nă đạn như mưa vào các toán quân, nhưng điều đó không làm chùn 
bước được của những người lính luôn luôn trong tư thế chuẩn bị, sẵn sàng xung 
phong nên ngay giữa cánh đồng trống, không nơi ẩn nấp, vị TĐT đă cùng với tất cả 
các chiến sĩ lúc ấy vẫn hiên ngang tràn vào và tiến lên dũng mănh đến nỗi VC 
phải khiếp sợ với khí thế hăng như trâu điên của TĐ2 quyết băng ḿnh phá tan lằn 
lửa đạn, dù phải đối chọi với tử sinh chạm gần trong gang tấc. Kết quả TĐ2/ TQLC 
toàn thắng chiếm hẳn được mục tiêu tuy phải chịu sự tổn thất vừa chết vừa bị 
thương mất gần một trung đội, trong số đó có Trung úy Nguyễn Ngọc Điệp (khóa 17/ 
VBĐL) v.v... 
Với chiến tích “phản phục kích” 
vẻ vang này, Tiểu đoàn do Thiếu tá Lê Hằng Minh chỉ huy và yêu cầu sự đề đạt 
danh hiệu, đă được Bộ tư lệnh TQLC chấp thuận cho mang danh xưng Trâu Điên 
(Crazy Buffalo) biểu tượng sự Cảm Tử, Hi Sinh và Dũng Mănh. Ngoài ra c̣n được 
tuyên dương công trạng trước Quân đội lần thứ tư và được mang dây biểu trưng màu 
xanh Quân Công Bội Tinh. Bắt đầu từ đó, các tiểu đoàn khác cũng được đặt tên để 
có những danh hiệu riêng như: Quái Điểu, Sói Biển, Ḱnh Ngư, Hắc Long, Thần Ưng, 
Hùm Xám, Ó Biển, Mănh Hổ. 
Người lính Lê Hằng Minh như 
chúng ta đă thấy là một chiến sĩ rất gan ĺ và quả cảm khi xông pha ngoài mặt 
trận, bởi ông luôn đặt trọng trách hi sinh v́ Tổ quốc lên hàng đầu. Nhưng bên 
trong con người của ông lại là một nghệ sĩ giàu cảm tính và nhân hậu. Ông sinh 
trưởng trong một gia đ́nh lễ giáo gồm 10 anh chị em. Người mẹ đă tần tảo một 
ḿnh lo bảo bọc các con khi người Cha đă qua đời năm ông 17 tuổi. Sống và lớn 
lên từ ngôi nhà cổ kính giữa vườn cây bóng mát xum xuê nơi Hàng Keo nằm trên 
đường Chi Lăng nối dài, gần chợ Bà Chiểu cạnh đền Lăng Ông nổi tiếng hiển linh, 
khói trầm nghi ngút quanh năm bên mộ Tả quân Lê Văn Duyệt vẫn tỏa sáng uy linh 
của bậc trung thần đại nghĩa, phải chăng đă ảnh hưởng phần nào đến tâm t́nh con 
người Lê Hằng Minh từ thuở nhỏ. Thích sống đời trai oai phong dũng mănh nhưng 
cũng là người yêu văn nghệ, đàn nhạc, thơ văn. Đôi khi cũng rất ủy mị, ướt át. 
T́nh cảm của ông cũng rất dạt dào đối với anh chị em trong gia đ́nh cùng sự kính 
trọng, hiếu thảo đối với bậc sinh thành và nhất là t́nh yêu quê hương đất nước 
được thể hiện rất rơ nét trong những vần thơ mộc mạc được viết ra từ đáy tâm hồn 
thiết tha: 
 
QUÊ TÔI 
Thuận Thành đất của Ba 
Rạch Kiến quê hương Má 
Quê nội quận Cần Đước 
Bên ngoại làng Long Ḥa. 
Sinh tại miền Gia Định 
Việt Nam vạn nẻo đường 
V́ sống cuộc đời lính 
Tôi có lắm quê hương. 
Pleiku xuống Sóc Trăng 
An Giang về Vũng Tàu 
Nha Trang ra Đà Nẵng 
Bến Hải xuôi Cà Mau... 
Gia Định đất linh thiêng 
Lăng Ông ôi nhiệm màu! 
Xa gần đều biết tiếng 
Cầu tài lẫn rể, dâu... 
Pleiku miền đất đỏ 
Thần sống chốn rừng núi 
Người Thượng đeo cung, nỏ 
Vai mang nặng chiếc gùi 
Sóc Trăng thơm ruộng lúa 
Những cô gái gốc Miên 
Nắng cháy da đen đúa 
Đôi mắt thật mơ huyền... 
An Giang xứ mắm ruốc 
Thánh địa đạo Ḥa Hảo 
Câu kinh buồn năo ruột 
Thất Sơn huyền bí sao! 
Danh lam đất Vũng Tàu 
Tuyệt vời ơi Băi Sau 
Băi Trước đông du khách 
Bể rộng với trời cao 
Xứ dân gầy cát trắng 
Cô gái miền Nha Trang 
Tháp Bà đến cầu Đá 
Tóc thề những cô nàng 
Vượt qua đèo Hải Vân 
Ḷng luống những bâng khuâng! 
Thương năo nề Đà Nẵng 
Hải cảng của Trung phần 
Chia đôi bờ đất nước 
Bến Hải thuộc Đế Đô 
Xứ Huế ngàn năm trước 
Thành Nội lắm nhiều mồ... 
Cà Mau là xứ cá 
Đỉa nhiều tợ bánh canh! 
Muỗi độc ôi nhiều quá! 
Cuộc đời thật mỏng manh! 
Tŕu mến đất Thần Kinh (Huế) 
Sài G̣n sao dễ thương! 
Gia Định tôi yêu kính! 
Đất Nước là Quê Hương! 
 
(LMH viết vào ngày 25 Tết, Kỷ niệm ngày giỗ Ba. Kính tặng các bà Mẹ vạn nẻo 
đường con đă gặp) 
 
Trên con đường rong ruổi nghiệp binh đao, ông cũng mang nặng t́nh thương yêu đối 
với các chiến hữu, những người cùng chí hướng lên đường nối gót chinh nhân. Cuộc 
đời của những người chấp nhận Đời Lính Chiến với tất cả những vui buồn gian khổ: 
 
CÁNH CHIM TRỜI 
Anh, tôi và chúng ta 
Thuộc đoàn quân thiện chiến 
Sinh tử siết t́nh ta 
Chiến thắng cùng chia, thù quyết trả! 
Những buổi dừng quân nơi thôn lạ 
Anh đứng gác, 
Anh vá áo, 
Anh ngủ say, 
Anh nấu nướng, 
Máy thu thanh với tuồng cải lương 
... muôn thuở! 
Tôi viết thư bên ngọn đèn dầu 
... ngàn thương! 
Các em bé, quây quần bên đàn anh xa lạ 
Khẽ vuốt lên ṇng súng: Anh ơi súng tên ǵ? 
Cô em gái, rộn ràng, nhà vui quá 
... cảm giác lạ! 
Bà mẹ già, thương xót đàn con muôn phương 
... “ôi tội nghiệp”! 
Tay ngoáy trầu liên miên 
Những cánh chim trời, mai về đâu 
... nào ai biết? 
... lại giết giặc 
... lại cơm vắt với x́ dầu 
... lại lên đường! 
(LHM thân tặng các chiến sĩ vô 
danh không vụ lợi và để tang cho cố Thiếu tá Nguyễn Văn Nho và những chiến hữu 
TĐ4/ TQLC đă hi sinh trong trận chiến B́nh Giả cuối tháng 12-1964) 
 
Những lời ấy là tất cả những tâm t́nh của ông trên bước đường hành quân xuôi 
ngược đó đây. Qua những trận đánh ác liệt và sau những tiếng súng, người lính 
trẻ lại trở về với những nỗi niềm cô đơn trăn trở trong những phút giây nhớ 
nhung và trống vắng: 
 
Lạc mẹ chim nức nở 
Thổn thức chi ve sầu 
Khúc nhạc buồn muôn thuở 
Cuộc đời là bể dâu...! 
Lá vàng rơi rụng măi 
Mưa thu dài lê thê 
Kiếp sống đầy ngang trái 
T́nh yêu đâu chẳng về...? 
 
Và trong những ngày mùa đông rét mướt ở Washington trong thời gian du học, ông 
trải rộng niềm thương nhớ đến người mẹ hiền và cô em gái út ở quê nhà: 
 
Hoa Tuyết triền miên phủ núi 
đồi 
Nhẹ nhàng rơi măi rụng không thôi 
Những cô gái Mỹ hây đôi má 
Tuyết phới qua mi, đậu cánh môi 
Ngập lối vài xe không chạy nổi 
Trẻ thơ “đấu tuyết” ném liên hồi 
Lăo bà run rẩy lê thê bước 
Bóng dáng thanh gầy giống Mẹ tôi! 
 
(Tặng em Ánh Tuyết. Ghi một ngày nhớ má 15/1/65. Mùa đông Washington. LHM) 
Cuộc sống ông cũng rất chí t́nh gắn bó với bạn bè đồng đội: 
 
Nhớ Soạn, thương Thông, lại 
mến Tâm* 
Dakbla than văn gió th́ thầm 
Đêm đông gối súng, sương nhiều quá! 
Dế khóc đêm dài... tôi lặng câm! 
 
(LHM. Kontum - Dakbla ngày 14/12/65. Một đêm nhớ Soạn và trước khi đi hành quân. 
* Thiếu tá Tôn Thất Soạn, Thiếu tá Hoàng Tích Thông và Trung úy Tâm). 
 
Và người thanh niên ấy cũng có những phút giây mơ mộng say đắm về t́nh yêu: 
 
Em là... ly rượu đắng 
Đốt cháy con tim này 
Em là... hoa tư tưởng 
Khiến ḷng anh vấn vương 
Em là nàng chim én 
Mang mùa xuân nhớ thương...! 
Hoặc thương nhớ về những h́nh bóng xa xôi nơi đất lành ông đă đi qua: 
Phong Dinh có bến Ninh Kiều 
Có ḍng sông đẹp với nhiều giai nhân 
Cuộc đời luống những phù vân 
Trở về chốn cũ cố nhân xa rồi! 
Thân em như cánh hoa trôi 
Thương em như cánh chim trời bơ vơ 
Yêu em lỡ cả cuộc đời 
Nhớ thương chỉ gởi mây trời từ đây... 
 
(Bài thơ “Về Phong Dinh” của LHM đă được nghệ sĩ Hồ Điệp diễn ngâm trong chương 
tŕnh Thi Văn Tao Đàn năm 1966). 
 
Cuộc đời gian khổ của người lính chiến rày đây mai đó, luôn cận kề bên những 
sống chết hiểm nguy, làm sao dám nghĩ đến chuyện t́nh yêu và mộng ước mai sau. 
Nhưng t́nh cảm đó vẫn không thể thiếu trong trái tim người lính trẻ, vẫn có 
những nỗi niềm u ẩn, vấn vương, mộng mơ và nhung nhớ... 
 
NGƯỜI EM GÁI DAKBLA 
Dừng quân nhặt cánh hoa hồng 
Nhớ người em gái trên ḍng Dakbla 
Xuân sang rồi đến đông tàn 
Quan san cách trở đôi đàng ngàn thương 
Tôi đi chinh chiến muôn phương 
Môi em vẫn mọng vẫn hường ấy chăng? 
V́ tôi là lính áo rằn 
Ra đi nào biết mấy trăng mới về! 
Bởi v́ em quư hoa hồng 
Nên trời bắt phải chờ trông 
V́ hồng nhiều gai lắm 
Hợp rồi vẫn là không 
Kontum mấy dặm sơn khê 
Lều khuya rét mướt gió về chơi vơi 
Nhớ em đếm tiếng sương rơi 
Sương bao nhiêu giọt buồn ơi là buồn... 
 
Ngoài sự yêu thích thơ văn, ông c̣n là người rất tài hoa về âm nhạc. Học đàn năm 
12 tuổi, ông đánh thành thạo tất cả các loại đàn dây và điêu luyện nhất là Tây 
Ban Cầm với những nhạc khúc cổ điển Tây Ban Nha. Trong thời gian c̣n đi học, ông 
thường đệm đàn cho ban nhạc của trường Petrus Kư, ban Khuyến nhạc của Đài phát 
thanh Pháp Á và ban nhạc Đồng Nai (đàn và hát chung với người anh là Lê Minh Đảo 
và người em gái kế là Mộng Huyền, một chi tiết nhỏ để nói lên con người hiền 
lành hiếu thảo của ông là dù mê đánh đàn ca hát tới đâu, xong việc là ông lo sớm 
về nhà để phụ giúp mẹ việc nhà và săn sóc các em). 
Qua hai lần sang Mỹ tu học, ông 
cũng trau dồi thêm về kiến thức âm nhạc với các danh tài ngoại quốc và đă sáng 
tác một số ca khúc như: Hoa cài trên súng (1959), Bơ vơ (1960), Người anh chinh 
chiến (1964), Em là mùa thu (1965), Sao buồn (1966) v.v... Có lẽ, Lê Hằng Minh 
cũng là người lính duy nhất, dù ở hậu cứ hay bất cứ tuyến đầu trận địa nào, đi 
đâu cũng mang theo bên ḿnh cây đàn Guitaire yêu quư, hễ có dịp dừng quân hay 
nghỉ ngơi là ông lại ôm đàn thay cho tay súng, đánh lên những tiếng đàn du dương 
trầm bổng cùng những ca khúc tuyệt vời cho bạn bè binh lính thưởng thức, tạm 
quên những gian khổ quân hành, vơi bớt nỗi nhớ nhà, cô đơn. Ông luôn lấy sự hào 
hiệp, tử tế vui vẻ của ḿnh để đối đăi và cư xử với mọi người chung quanh. Trong 
chỉ huy, ông nguyên tắc mực thước, sống đời thường lại nhân ái giản dị nên ông 
được hầu hết các bạn bè chiến hữu dành cho t́nh cảm thương mến tốt đẹp. 
 
Trong bài viết những cảm nghĩ về một vị chỉ huy khả kính của ḿnh (ĐSST), Thiếu 
tá Lâm Tài Thạnh đă viết đôi ḍng hồi tưởng như sau: Trong những ngày cuối năm 
1965 về dưỡng quân tại hậu cứ Thủ Đức (Tam Hà), hôm đó là một buổi chiều thứ 
bảy, tôi và Quang chẳng biết làm ǵ cho qua “chiều cuối tuần cạn túi” trong 
pḥng ngủ độc thân v́ cả hai nguyên quán đều ở xa, bà con họ hàng ở Sài G̣n cũng 
chẳng mấy thân thích gần gũi, c̣n em gái hậu phương th́ cũng chẳng quen biết 
nhiều với lại điều kiện “đầu tiên” bó buộc. Thôi th́ nằm nhà cho ăn chắc mặc 
bền. Chúng tôi mang quân dụng ra lau chùi đánh bóng để qua thời giờ giữa buổi 
trưa quá tĩnh lặng, bỗng nghe vang lên tiếng Tây Ban Cầm réo rắt với bản Panama 
(Cánh buồm xa xứ) khi th́ như sóng vỗ lúc chẳng khác cơn gió heo may. Tôi nói 
nhỏ với Quang: “Ông cũng ở nhà như ḿnh”, Quang trả lời: “Ông chưa có lập gia 
đ́nh” rồi chúng tôi lại tiếp tục công việc c̣n dang dở. Khoảng 30 phút sau, 
tiếng đàn ngưng hẳn và vào lúc chúng tôi không chuẩn bị để chào kính th́: “Chiều 
thứ bảy mà không đi bát phố à? Sĩ quan trẻ mà nằm nhà, dở vậy??”. Chúng tôi lúng 
túng chào tay và cùng trả lời: “Tiền lính tính liền thưa Th/T, với lại chả biết 
đi đâu”. Ngắn gọn, dứt khoát như khi ban lệnh hành quân: “Mặc quân phục vào, đi 
với tôi ra hồ tắm “Ngọc Thủy” uống nước giải khát”. Năm phút sau, chúng tôi đă 
có mặt trên xe do chính Tiểu đoàn trưởng làm tài xế với tôi ngồi kế bên (Quang 
là khóa đàn em nên cố t́nh nhường tôi ngồi trước với Đại Bàng hoặc v́ e ngại sơ 
suất khi nói chuyện nên bán cái cho tôi??). Trước khi rời trại, người c̣n nói 
nhỏ: “Ḿnh đi gần đây khỏi gọi HS Danh (tài xế) làm chi, cho chú ta ở nhà với vợ 
con”. Trong tự nhiên đối xử như một người anh cả trong gia đ́nh sau khi gọi nước 
uống cho chúng tôi, NT Minh hỏi thăm về nguyên quán, gia đ́nh, học vấn, quân 
trường v.v... Từ dè dặt, ngần ngại như lệ thường của bất cứ một Sĩ quan cấp 
trung đội trưởng nào khi phải trực tiếp tiếp xúc với Đơn vị trưởng ở cấp cao mà 
thường khi “chạm mặt” th́ chỉ có “Từ chết tới bị thương”, chúng tôi đă vui vẻ 
trao đổi trả lời các câu hỏi. Dần đà câu chuyện trở nên thân t́nh có tính cách 
đời thường thực tế và tươi mát hơn. Trước khi ra về, tôi c̣n nhớ rơ: “Các sĩ 
quan trẻ nhiều năng nổ, chịu khó, kỷ luật, ham học hỏi là xương sống và ch́a 
khóa thành công của đơn vị. Các em cố gắng nhé, thôi ḿnh về”. Lời nói chân 
t́nh, tha thiết có giá trị động viên cao của cố Niên trưởng Lê Hằng Minh đă làm 
cho tôi và Quang thực sự xúc động và cảm mến vị chỉ huy đầy đức độ, nghiêm nhưng 
không “quan liêu”, oai nhưng không “khắc nghiệt”. Gần 10 năm sau có lần tôi đă 
lặp lại câu nói đó của người cùng toàn thể Sĩ quan TĐ 9 trong ngày tôi nhận chức 
vụ TĐT. 
Nơi hậu cứ Thủ Đức - Tam Hà là 
nơi Tiểu Đoàn 2/ TQLC thường về đây dưỡng quân, sau này c̣n được gọi là hậu cứ 
Lê Hằng Minh sau năm 1966. 
Trở lại với người chiến sĩ Lê 
Hằng Minh, khi chiến trường miền Trung càng lúc càng sôi động th́ Tiểu đoàn 2/ 
TQLC cùng những đơn vị bạn càng đi sâu vào những gian lao chiến đấu với tất cả 
mọi căng thẳng hiểm nguy ŕnh rập từng phút từng giây. Từ đầu mùa hè năm 1966, 
họ phải điều động và tham dự nhiều trận hành quân liên tiếp suốt ba tháng không 
ngày về thăm nhà, nghỉ phép. Đánh B́nh Định, Quế Sơn vừa xong, lại bay vào Quảng 
Ngăi, rồi về Đà Nẵng, Huế... 
Ngày Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa 
được chính thức thành lập và công bố là ngày 19 tháng 6 năm 1966. Để tưởng 
thưởng những phần tử ưu tú có công trong sứ mạng diệt Cộng tại tiền tuyến, một 
số cấp chỉ huy đơn vị chiến đấu được thăng cấp đặc cách tại mặt trận vào ngày lễ 
trọng đại này, trong đó có thiếu tá Lê Hằng Minh. Vừa được thăng cấp Trung tá 
vào ngày 19/6/66, Lê Hằng Minh đă cùng Tiểu đoàn 2 và một số đơn vị tác chiến 
khác lại lao vào mặt trận Lam Sơn 283 ở Gia Đặng - Phù Lưu (21/6 đến 23/6), tiếp 
thêm những trận thắng vẻ vang với sự chiến đấu rất gan ĺ dũng cảm của họ. Trong 
một bài phóng sự, kư giả Dzoăn B́nh đă viết về chuyến gặp gỡ bất ngờ với Tr/T 
LHM như sau: “Chúng tôi ghi vào sổ tay và tự nhủ sẽ khai thác về cái chết oai 
hùng của Thiếu úy Bằng, Đại đội 3 thuộc TĐ Trâu Điên. Hỏi về sự anh dũng của đại 
úy Sứ, tung hoành đè bẹp VC bằng đoàn Cọp Bay M-113. Và ḷng tự nhủ sẽ phải “vớ” 
được con người chỉ huy Trâu Điên mà khi nói về cá nhân xuất sắc, phần đông đă 
khuyên chúng tôi nên đi t́m hai ông Trung tá Lê Hằng Minh và Tôn Thất Soạn. Họ 
nói: “Hai ông này mới có 31 tuổi nhưng đánh đấm ĺ lợm “ch́” lắm. Cả hai đều là 
Cọp Biển. Trận Phù Lưu - Gia Đặng, cả hai đều đứng khơi khơi đánh xung phong như 
đi biểu diễn”. Thế rồi, chiều 24/6/66, Huế... buồn xa vắng, mưa lất phất... như 
trời khóc sụt sùi. Chúng tôi đi “lô ca chân” tạt vào văn pḥng triển lăm ngó anh 
em đang bầy biện SKZ và súng Nga vừa thu được. Th́nh ĺnh, chúng tôi đụng đầu 
với hai ông quan Cọp Biển. Nh́n vào ngực thấy cái lon bạc trắng, chẳng rơ là cấp 
ǵ. Ngó lên nón “bê rê” thấy hai cái bông bạc: cấp Trung tá. 
- Ủa! Sao hai ông Trung tá này trẻ quá. Nếu phỏng đoán bạo lắm cũng chỉ nghĩ họ 
tới 26 tuổi là cùng. 
Dù Trung tá Minh để râu mép, nhưng nét mặt tràn đầy nhựa sống, hồn nhiên yêu đời 
của họ đă giúp chúng tôi mạnh dạn làm quen. Sau màn tự giới thiệu, chúng tôi 
cùng bước vào một quán nước bên đường tṛ chuyện. Trung tá Soạn giơ tay giới 
thiệu: “Đây, kể về trận đánh ác liệt tại Phù Lưu, tôi xin nhường lời lại cho 
Tr/T Minh”. Cho đến phút này, con người mang tên Minh mới bắt đầu lên tiếng. Ông 
cao giỏi lắm là một thước 55, nặng lối 47 kư là tối đa. Khuôn mặt nhỏ nhắn, mắt 
hơi ốc nhồi, miệng cười rất có duyên, nhờ điểm thêm bộ râu mép đă làm tăng thêm 
vẻ “bô trai” của Tr/T họ Lê. Nh́n ông có thể nhận ra ngay qua h́nh ảnh của người 
anh ruột là Thiếu tá Lê Minh Đảo ở pḥng 3 của QĐ 4. Hai anh em Minh giống nhau 
như khuôn đúc. 
Chúng tôi hỏi: “Tại sao lại đặt tên là Trâu Điên?”. 
“V́ tụi tôi hăng và xung phong đánh Cộng như Trâu Điên, chỉ biết húc tới. Có thể 
nói chưa hề “thất” trận nào. Tiểu đoàn 2 TQLC được kể là đơn vị nổi nhất và đứng 
đầu sổ về công trạng”. 
Ngừng một lát, ông kể tiếp: “Kỳ 
này mệt chớ phở, mới đi đánh nhau sơ sơ gần 3 tháng chưa về Sài G̣n. Khi hành 
quân “cú” Lam Sơn 283, tiểu đoàn Trâu Điên mệt - hết muốn đi - v́ vác nặng gần 
trọn ngày. Thế mà tới 5 giờ chiều, khi gần tới đầu làng Gia Đặng, đơn vị tôi đă 
bị dồn cục v́ mới vượt qua cái cầu. Anh em xúm sát gần nhau. Tôi vội lướt lên 
hàng đầu để ra lệnh cho họ trở về theo cự ly đă định người này cách người nọ 10 
thước. Đi xúm xít bị nó “đớp” th́ chết cả đám. Ấy thế rồi, tôi vừa lướt lên đầu 
th́... thoáng bắt gặp phía trước cách lối 10 thước, 3 cái đầu vội thụp xuống. 
Linh cảm rất bén nhạy, tôi ra dấu cho toán quân tiên phong nằm ngay xuống, bố 
trí về phía có địch vừa phát hiện. Tôi cho nổ một loạt đạn trung liên vào cái hố 
có 3 VC, một tên có thượng liên, hai tên có tiểu liên AK50. Th́ ra chúng là tổ 
viễn tiêu. Nếu không kịp phát giác th́ tụi tôi đă lọt vào ổ quỉ. Bắn loạt đầu, 
VC trả lời như pháo Tết, may mà chiến sĩ Trâu Điên đă nắm chiếm ưu thế và ở 
ngoài tuyến bố trí của địch. Suốt ngày đi “lô ca chân” mệt mỏi phờ người, thế mà 
gặp địch, lính lại ḥ hét xung phong như trâu điên và tất cả quên đói, đánh địch 
suốt từ năm giờ chiều cho đến chín giờ tối. Bọn chúng rút khỏi trận địa để lại 
hơn bảy mươi xác chết. Tiểu đoàn Trâu Điên lại được lệnh quay về mục tiêu Phù 
Lưu, cách Gia Đặng 10 cây số. V́ tiểu đoàn 808 VC đêm trước đă từ Gia Đặng luồn 
một lèo “lĩnh” về Phù Lưu. Không thể tưởng tượng được, liền ba đêm ba ngày đi 
liên miên. Đánh nhau tơi bời tới 21-6-66, suốt đêm đó mắt thao láo nằm vây địch, 
thế mà sáng hôm 22-6 lại “tỉnh bơ” đi đuổi địch về Phù Lưu, lại xung phong đánh 
chiếm từng hầm, diệt từng hố, phải băng suối đánh xáp lá cà với VC suốt từ 4 giờ 
chiều đến 2 giờ đêm mới khóa tắt họng súng địch...”. 
Sau khi kể những chi tiết hấp dẫn về trận đánh, Tr/T Minh nhún vai nói tiếp: Từ 
nay đến 30/6, cậu chịu khó ra Huế, chúng tôi sẽ mời cậu đi theo hành quân ngay 
từ lúc mới mở màn, có thế mới viết kỹ và sống động hơn là đánh đấm xong từ khuya 
rồi mới ḷ ḍ ra viết theo kiểu “nghe đồn rằng...”. Tr/T Minh hẹn sẽ khao chúng 
tôi một chầu khi tái ngộ tại Thanh Thế khi về tới Sài G̣n. Chúng tôi chia tay 
hai ông Tá và về Sài G̣n viết loạt bài phóng sự, đặc biệt viết thêm chuyện về Lê 
Hằng Minh trên Nhật báo Sống. Chúng tôi chân thành viết v́ yêu mến người chiến 
sĩ Cọp Biển, đánh giặc hay như chơi đàn. Ra trận đánh nhau bằng súng đạn, xong 
rồi lại... thản nhiên gảy đàn vui nhộn trước ba quân. Dù đă 31 cái xuân xanh 
mà... Trung Tá Minh vẫn cô độc. Ông vui với đời Cọp Biển và chịu ế vợ có lẽ 
v́... tự linh cảm thấy ngày mai... của đời chiến sĩ, thuộc đơn vị đă lẫy lừng 
danh tiếng về tài xung phong diệt địch... 'Bài phóng sự chiến trường của Dzoăn 
B́nh”. 
Từ trận chiến thắng Lam Sơn vang 
dội này, báo chí từ Sài G̣n bay ra mặt trận quan sát và phỏng vấn Tr/Tá Lê Hằng 
Minh. Buổi lễ chiến thắng được tổ chức trọng thể tại Huế. Ṿng hoa chiến thắng 
và huy chương lại một lần nữa ngập trên vai người anh hùng mũ xanh, chỉ huy tiểu 
đoàn Trâu Điên. 
Từ Huế, những cánh quân chia ra 
để xuôi Nam ngược Bắc. TĐ1 (Th/T Phan Văn Thắng) theo Chiến đoàn B (Tr/T Tôn 
Thất Soạn) di chuyển vào Quảng Ngăi. TĐ2 ở lại An Ḥa (phía Bắc thành phố Huế) 
để nhận tăng phái cho SĐ1/ BB với đoàn quân xa GMC nằm chờ từ chiều ngày 28/6/66 
để chuẩn bị di chuyển vào sáng sớm hôm sau. 
Sau đây xin được trích phần 
tường thuật ngắn của vị Đại úy cố vấn thuộc TĐ2/ TQLC là Thomas E. Campbell về 
những diễn biến của trận đánh: 27 xe GMC, khởi hành từ An Ḥa lúc 7 giờ 30 sáng 
ngày 29/6 với 573 TQLC. Khi đoàn xe cách Huế khoảng 30 cây số và c̣n 20 cây số 
th́ đến Quảng Trị theo Quốc lộ số 1, lúc này vào khoảng 8 giờ 30 sáng, di chuyển 
với tốc độ khoảng 30 - 35 KPH. Hai xe bị bắn bởi đạn 75 ly và bị cháy phải tấp 
vào lề đường, từ đồi ở phía Tây bắn ra với khoảng cách 400 mét. Đoàn xe phải 
ngừng lại, Trung tá Minh ra lệnh cho Bộ chỉ huy/ TĐ di chuyển đến gần đường xe 
lửa cách lộ khoảng 60 - 75 mét. Việt Cộng từ đường rầy bắn ra rất mạnh. Sau một 
lúc giao chiến, ông Minh bị thương bởi hai viên đạn trúng ngực. Tôi thấy ông bị 
thương nặng. Một quả lựu đạn nổ làm tôi bị thương vào tay, cổ nhưng nhẹ. Khi tôi 
trở lại chỗ Trung tá Minh th́ thấy ông đă chết, có lẽ v́ trúng miểng lựu đạn vào 
đầu”. 
Tiếp theo xin được trích lại bài viết của kư giả Dzoăn B́nh đăng trên Nhật báo 
Sống về “Trận phản kích tuyệt vời cuối cùng của Trung tá Lê Hằng Minh” sau đây: 
“Theo đúng lời hẹn, chúng tôi ra Huế đúng ngày 29/6/66. Đến Phú Bài lúc 15 giờ 
chiều, gặp loáng thoáng một đoàn quân nhạc có sĩ quan Cọp Biển đứng chỉ huy. Bên 
cạnh, có chiếc phi cơ ở phía sau, chúng tôi thấy một quan tài phủ Quốc kỳ. Cũng 
như lần trước, khi xuống sân bay, chúng tôi cũng gặp cảnh tương tự. V́ thế, ḷng 
chỉ thấy buồn lâng lâng... tay cầm tờ báo Sống, bụng nóng ruột mong téléphone 
gọi Tr/T Minh để khoe bài báo viết về khí phách của Trâu Điên và Tiểu đoàn 
trưởng Trâu Điên. Nhưng... chúng tôi giật ḿnh khi có tiếng la của một Trung sĩ 
ra lệnh: 
- Này, trung đội 2 sửa soạn chào quan tài Trung Tá. 
Các tiếng x́ xào tự nhiên lọt vào tai tôi: 
- Tiểu đoàn Trâu Điên vừa đánh bại trận phục kích kinh khủng của VC ở quốc lộ 1. 
Chúng tôi lật đật vớ lấy người nói câu này rồi hỏi hấp tấp: 
- Có ai chết không? 
- Có, Trung tá Tiểu đoàn trưởng chết rồi! 
- Có phải Trung tá Minh không? 
Không đợi trả lời, chúng tôi chạy như bay ra phía có chiếc quan tài và... quả đă 
rơ ràng - đúng là vị trí cuối cùng của Trung tá Lê Hằng Minh. Dường như... chúng 
tôi có chảy nước mắt trong phút giây đó. Cái sự khóc xảy ra thật kỳ dị. Tôi 
không có ư thức về cái khóc bất thần này. Nhưng... đó là điều ở trong đáy ḷng 
tôi. Cảm thấy bồn chồn, tự nhiên tôi thấy tất cả đều phi lư và trong giây phút 
như mê ấy, tôi vẫn chưa định thần để nhớ cho kỹ lại, liệu ḿnh đang làm ǵ? đang 
ở đâu? và có chuyện chi đang xảy tới. Cảm giác nghẹn ngào xâm chiếm và đè nặng 
trĩu. Tôi bùi ngùi nói bâng quơ như khấn vái: “Trung tá Minh ơi! Tôi viết bài đề 
cao tiểu đoàn Trâu Điên và viết về Trung tá đây này”. Tôi trịnh trọng trải tờ 
báo lên nắp quan tài và lấy cái nón bê rê xanh đè chặn lên cho gió khỏi bay. Tôi 
tưởng như Lê Hằng Minh đang tủm tỉm cười với tôi, một nụ cười ma quái xuyên qua 
nắp chiếc áo quan... vô lư ấy. 
Ḷng không định mà tôi đột nhiên đứng nghiêm rất thẳng người để chào anh lần 
cuối, nước mắt lại ứa ra. Tôi khấn vái lần nữa: “Anh Minh hăy phù hộ cho tôi có 
nhiều cơ hội đi với các bạn đồng đội của anh, để viết thật nhiều, viết thật đều, 
để cho triệu người ở phần đất này thông cảm được sự gian khổ của những người 
lính chiến hôm qua c̣n đây, hôm nay đă ra người thiên cổ. Có trông thấy cảnh này 
mới thương đến người chiến binh”. 
Tôi cố tưởng tượng và h́nh dung 
lại con người anh rồi đột ngột hỏi thăm một Tr/Úy Cọp Biển đứng gác quan tài 
rằng: “Trung Tá bị... vào đâu?”. Chẳng hiểu tôi là cái “thống chế” ǵ mà hỏi dồn 
dập và hơi có vẻ “vô lễ” như vậy, người sĩ quan lắc đầu đáp giọng bùi ngùi: “Ông 
bị hai phát vào ngực. Tụi nó c̣n quất thêm một tạc đạn, miểng tạc đạn phá bể 
sọ”. Tôi rùng ḿnh liên tưởng đến phút giao tranh ác liệt, Tr/Tá Lê Hằng Minh tả 
xung hữu đột giữa đám cuồng tín như thú dữ. Ông đă bắn đến viên đạn chót và đă 
gục ngă anh dũng như tất cả các chiến sĩ Cọp Biển từng hi sinh tô thắm cho lá cờ 
binh chủng, ngày thêm nổi bật truyền thống oai hùng của đoàn quân Cọp Biển”. 
Nói Về Một Người Chết là 
những cảm xúc của nghệ sĩ Tô Kiều Ngân trong bài tạp ghi đăng trên báo năm 1966: 
“Đêm văn nghệ đă tàn, anh em TQLC dừng quân tại Kontum tỏ ra hả hê, thoải mái 
với một chương tŕnh ca vũ hào hứng. Trong ánh sáng mờ mờ, chen giữa những tiếng 
nhạc dặt d́u, bỗng xuất hiện một người: mắt to, tóc ngắn, quần áo cọp biển, 
chiếc lon Thiếu tá gắn nơi ngực, bộ râu mép rất xanh, ông ta tới gần ban nhạc, 
cầm lấy cây lục huyền cầm. H́nh ảnh đó chẳng có ǵ đẹp, v́ dáng dấp, quần áo của 
con người đó đi kèm với chiếc đàn lục huyền quả thật là một cuộc hôn phối không 
cân xứng. Nhưng tôi giật ḿnh, trước mắt tôi bỗng hiện ra một chân trời chói 
chang nắng vàng, rồi tiếng hát của bọn du mục giang hồ, những trái cam mọng đỏ, 
gió của sa mạc, rồi những cuộc đấu ḅ rừng, tiếng castagnettes reo đều trong tay 
cô gái Tây Ban Nha quay đều lả lướt. 
 
Mọi người đều ngồi im, hướng về người chiến sĩ đang đàn kia. Đầu anh hơi cúi 
thấp, đôi mắt anh ban năy to và sáng, bây giờ bỗng trở nên dịu hiền. Anh như 
không chú ư đến mọi người, năm ngón tay lướt trên cần đàn, năm ngón kia búng vào 
sáu dây gợi lên những tiếng sóng vỗ, mưa sa. 
 
Thật là “thế gian bất hiểu tài hoa khách”. Đất Kontum giá lạnh, heo hút này đă 
mang đến cho tôi một bất ngờ. Sau đêm đó, tôi biết anh ta là Hằng Minh, Thiếu tá 
Lê Hằng Minh, Chiến đoàn phó Chiến đoàn A/ TQLC. 
 
Trở về Sài G̣n, tôi gửi sách lên tặng Minh, Minh viết thư về cho tôi nói rằng 
rất nhớ “tiếng sáo ru hồn” và Minh gởi cho tôi mấy bản nhạc để tŕnh bày ở Đài 
Phát Thanh. Yêu cầu đó đă được đáp ứng. Một chiều hành quân nào đó, Minh đă được 
nghe vọng ra tiền tuyến tiếng hát của Mai Hương tŕnh bày bài nhạc của anh. 
 
Ít lâu sau, tôi được tin Minh đi đánh giặc ở Bồng Sơn, Phú Yên rồi mới đây, tôi 
gặp Minh ở Đà Nẵng trong những ngày khó khăn nhất của t́nh h́nh đất nước. Vẫn mớ 
tóc ngắn, đôi mắt to, bộ râu mép xanh ŕ, nụ cười hiền hậu. Th́ ra Cọp biển bơi 
hoài, nay Kontum, mai Bồng Sơn, ngày kia đă dạt ra Đà Nẵng. Gặp nhau ngắn ngủi, 
chia tay không kịp hẹn ḥ th́ hôm qua đây, Huy Phương đột ngột báo tin cho tôi: 
 
- Anh ơi! Ông Hằng Minh chết rồi. 
 
Tôi sửng sốt, người lặng đi, gai ốc nổi cùng ḿnh. Hằng Minh chết rồi ư? Tôi 
sững sờ như chưa khi nào nghe tin có người chết mà sững sờ như thế, kể cả lúc 
tôi nghe tin hai bà má tôi kế tiếp nhau qua đời trong ṿng một tháng. Bà mẹ tôi 
như lá vàng, Hằng Minh là chiếc lá đương xanh. 
 
Buổi chiều ngồi trong quán nước đường Lê Lợi, hai người bạn nói chuyện với nhau 
về lẽ sống chết ở đời. Có những người bạn vừa cụng ly với ta chiều nay, sáng mai 
lại đă vĩnh viễn nằm yên, giă từ tất cả. Chuyện đó bây giờ xảy ra như cơm bữa. 
 
Tôi chợt nhớ tới Hằng Minh, người chiến sĩ vừa đánh giặc vừa đánh đàn. Lê Hằng 
Minh là chiến sĩ, chiến sĩ th́ sống chết là chuyện thường nhưng giá Hằng Minh 
đừng có ngón đàn tuyệt diệu, đừng có một tâm hồn tràn đầy yêu thương th́ khi 
nghe tin anh chết, sự ngậm ngùi cũng không đến nỗi nhiều như thế!”. 
 
Sau ngày cố Tr/T Lê Hằng Minh tử trận, Tổng cục chiến tranh chính trị có cho 
phát thanh một số chương tŕnh “Thơ và nhạc Lê Hằng Minh”, trích từ những bài 
thơ và nhạc phẩm do ông sáng tác về t́nh yêu, t́nh bạn và đời quân ngũ trên làn 
sóng Đài phát thanh Quân đội ở Sài G̣n để tưởng niệm đến một anh hùng mũ xanh đă 
nằm xuống v́ Tổ quốc và dân tộc Việt Nam. 
 
Dẫu cũng là người trai trong thời ly loạn, đă là chiến sĩ cầm súng giữ biên 
cương, tất cả đều xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, sẵn sàng chấp nhận tử sinh bất 
cứ giờ phút nào xảy đến với ḿnh nhưng Thiếu tá Lê Minh Đảo lúc ấy không thể nào 
ngăn được ḷng xót đau khôn cùng trước sự ra đi vĩnh viễn của người em trai thân 
yêu. Ông đă khóc bằng những giọt lệ đau ḷng khi viết nên những ḍng chữ hết mực 
thương yêu: 
 
Minh, 
 
Anh ghi lại cuộc đời em trong khi em đă nằm yên nghỉ dưới ḷng đất nước Việt Nam 
thân yêu, điêu linh và tang tóc này. 
 
“V́ quốc vong thân”, em để lại cho quốc gia này bao nuối tiếc, cho thế hệ 1966 
một gương sáng soi chung cùng với một sự thiệt tḥi to tát. Quân lực VNCH mất đi 
một chiến hữu oai hùng, một cán bộ chỉ huy ưu tú, lỗi lạc và gan ĺ... Văn nghệ 
Việt Nam mất đi một nhân tài có ngón đàn tuyệt diệu, một thi nhân với những ḍng 
thơ đa cảm tràn đầy yêu thương. 
 
Gia đ́nh chúng ta, lúc em c̣n sống, t́nh thương của em, em ban hết cho tất cả 
mọi người, sự hi sinh của em vô bờ bến. Cho nên, mất em, gia đ́nh mất tất cả, 
những người c̣n ở lại không c̣n đủ nghị lực để tin tưởng vào ngày mai. Riêng 
anh, sự mất mát thật quá ư lớn lao và tàn nhẫn. Anh mất một đứa em hiền ḥa, 
hiếu thảo, một chiến hữu anh hùng tài ba, một “Bá Nha của Tử Kỳ”, một người tri 
kỷ... Thật vậy, không ai hiểu anh bằng em, cũng như không ai biết rơ em bằng 
anh. 
 
Em giă từ thế gian giữa tuổi “hoa niên” đầy mộng mơ, huy hoàng. Bao nhiêu người 
hướng về em, tin tưởng ở tương lai rực rỡ của em. Thế mà đành phải khóc em, khóc 
cho con người tài hoa bạc số! 
 
Em như một v́ sao. Sáng quá! Rực rỡ quá! Ánh sáng làm lóa mắt mọi người. Tất cả 
đều hướng nh́n em đang vượt thẳng tít lên cao và tan biến trong vũ trụ bao la để 
cho mọi người phải bàng hoàng, ngẩn ngơ, tiếc rẻ. Em đă tự tạo cho em một sự 
nghiệp vĩ đại làm hănh diện cho gia đ́nh, cho gia tộc họ Lê. Những đời sau này 
chưa chắc ǵ con cháu chúng ta sẽ làm được như em. 
 
Hầu hết nhân vật trọng yếu của Quốc Gia mến tiếc em, phúng điếu và đưa linh cữu 
em đến nơi an nghỉ cuối cùng. Báo chí ngoại quốc và Việt Nam ca tụng em, dành 
cho em những hàng Tít lớn. Đài Phát thanh dành những chương tŕnh đặc biệt ca 
ngợi và thương tiếc người chiến sĩ anh hùng, người nghệ sĩ tài hoa. Nhưng anh 
nghĩ rằng: “Nói đến Lê Hằng Minh mà chỉ nói đến phương diện ái quốc và nghệ 
thuật không chưa đủ. Lê Hằng Minh c̣n có nhiều đức tính cao quư khác. Cuộc sống 
nội tâm của Hằng Minh chứa đầy những u ẩn, dồn ép của một con người đa sầu đa 
cảm, quảng đại và vị tha, đem t́nh thương của ḿnh ban cho tất cả mọi người...”. 
 
Đó là những lời xúc cảm với muôn vàn đau đớn tiếc thương của Th/Tá Lê Minh Đảo 
khi ông chợt nghe tin em trai ḿnh vừa anh dũng hi sinh. 
 
Và trên những tờ nhật báo Sống, Tiền tuyến... với những tin tức đang sôi bỏng 
ngoài chiến trường trong thời điểm đó, đă ghi lại bài phóng sự tường thuật: Trận 
phục kích Thần Sầu Quỷ Khốc của T.Đ. Trâu Điên như sau: 
 
“Chúng tôi đến thăm trận địa giữa lúc xác địch máu đỏ c̣n bốc hơi, nằm ngổn 
ngang dọc đường rầy xe lửa, lẫn bên tử thi của các chiến sĩ Cọp Biển thuộc T.Đ. 
Trâu Điên gục ngă kế bên thân địch, điều đó chứng tỏ quân ta đă đánh cận chiến 
với quân xung phong của VC cho tới phút thở hơi cuối cùng. 
 
Nh́n chung quanh là những dăy đồi trọc chập chùng bát ngát chạy dài tới vùng Cận 
Sơn. Địch chém vè tẩu thoát về phía núi nhưng binh lực TQLC Mỹ, Thiết giáp và 
các thiên thần mũ đỏ thuộc Tiểu đoàn 5 Nhảy dù đă được trực thăng vận cấp kỳ 
nhảy xuống trận địa và tiến sâu vào ḷng núi để chận đường rút của địch. 
 
VC phục kích hai mặt dồn ta lọt vào tầm súng địch. 
 
Pḥng tuyến bố trí của VC dài 3 cây số. Nơi được chọn làm chiến trường nằm gần 
ranh giới Quảng Trị - Thừa Thiên, cách Huế 34 cây số. Địch nằm ôm lấy con đường 
số 1. Chúng phục cả hai bên đường. Bên tay mặt, chúng ẩn nấp sau bụi rậm, bố trí 
SKZ và súng thượng liên khai hỏa bắn ngay vào quân xa gồm 27 chiếc chuyên chở 
toàn bộ T.Đ. Trâu Điên xuất phát từ Huế khoảng 7 giờ sáng 29/6/66. 
 
Tiểu đoàn này có nhiệm vụ ra Đông Hà dự cuộc hành quân hỗn hợp với Đồng Minh 
(T.Đ. này cũng vừa tạo thành chiến tích Phù Lưu đè bẹp T.Đ. 808 VC). Khi súng 
địch nổ bùng, các chiến sĩ Trâu Điên phản ứng tự nhiên bằng cách nhảy khỏi xe, 
tràn qua tay trái băng qua đồng trống lối vài chục thước để chiếm lănh cao địa 
VC là dăy đường rầy xe lửa. 
 
Nhưng địch đă nằm đầy nhóc tại phía này và quân ta đă chạy thẳng vào đúng tầm 
súng của quân xung phong VC. Trong trường hợp thất thế này chỉ một phút lúng 
túng là toàn T.Đ. sẽ tan ră trong nháy mắt. Khi mà SKZ nổ từng loạt bắn cháy 
ngay trong 5 phút đầu 14 xe ngút lửa, khi mà phía địch quét ra hàng loạt thượng 
liên bắn như mưa rào. Chạy qua phía trái th́ đụng vào lưới lửa tập trung hỏa lực 
của địch đă nắm ưu thế địa h́nh chọn lựa từ trước. Nhưng Tr/T Lê Hằng Minh, tiểu 
đoàn trưởng T.Đ. Trâu Điên đă tỉnh táo nhận rơ lối mai phục của địch bố trí cả 2 
bên đường. Như vậy tầm súng của địch phía đường rầy có thể bắn vào đồng chí của 
chúng phía bên kia mặt đường sau bụi rậm. Quả đă rơ ràng là VC chỉ bắn thật sự 
khoảng 5 phút mở màn trận đánh và khi ta nhào qua phía đường rầy xe lửa, th́ bọn 
VC bên này chỉ bắn với mục đích dùng tiếng nổ uy hiếp tinh thần quân ta, xua 
quân ta chạy về phía bố trí hỏa lực chính của địch. Nhận định tổng quát toàn bộ 
chiến trường với phản ứng chớp nhoáng, Tr/T Lê Hằng Minh ra lệnh cho Đại úy tiểu 
đoàn phó Nguyễn Văn Hay mang toán quân thoát hiểm sau đợt SKZ phủ đầu dồn toàn 
lực băng qua đường vượt qua đám lửa khét lẹt mùi xăng và thịt người chết cháy, 
để xung phong đánh thốc vào pḥng tuyến của VC nằm phía bụi rậm. Nếu VC thật sự 
bắn theo đường bắn thẳng th́ chúng sẽ quạt vào quân của chúng đang rời khỏi 
đường rầy xe lửa để xông vào đánh cận chiến với các chiến sĩ Cọp Biển từ trên 
đoàn xe bốc cháy nhảy xuống xáp chiến giữa làn sóng biển người của đối phương. 
 
Bên cạnh Tr/T Lê Hằng Minh c̣n có một trung đội cảm tử có nhiệm vụ bảo vệ cho 
Ban Chỉ huy TĐ, nhưng các chiến sĩ cảm tử này đă bị hàng trăm quyết tử VC cố ư 
nhắm vào bộ phận đầu năo của ta để lao vào tiêu diệt dù phải đổi giá đắt. Trung 
Tá Lê Hằng Minh, người chiến sĩ Cọp Biển, anh cả của TĐ2/ TQLC với 31 tuổi xuân 
tràn đầy nhựa sống ấy đă oanh liệt gục ngă sau khi điều động toàn tiểu đoàn lật 
ngược thế cờ phản kích địch và giật lại thế chủ động chiến trường. 
 
Để giúp bạn đọc có một khái niệm tổng quát về trận phản kích của VC trên quốc lộ 
1 ngày 29/6/66, chúng tôi xin lược thuật vài nét chính như sau: 
 
Lực lượng VC gồm có Tiểu đoàn chính quy 800 được tăng cường thêm Đ.Đ. Pḥng 
không C-15 gồm súng nặng 12 ly 7 và đại liên 50 có bánh xe, tăng cường thêm Đ.Đ. 
C-16 gồm súng cối 82 ly, SKZ 57 ly và 2 cây đại bác 75 ly. Đơn vị này nhắm đánh 
xe tăng và yểm trợ cho quân xung phong khi tiến cũng như lúc giải quyết chiến 
trường. Tăng cường thêm Đ.Đ. C-13 gồm bộ phận truyền tin, điện thoại... Quân số 
VC tham dự trận phục kích gồm 700 người cộng thêm quân du kích địa phương thuộc 
đơn vị H99 trang bị các vơ khí như carbin garant M1 FM 24x29 v.v... Trận phục 
kích vận động chiến của VC áp dụng theo kế hoạch chặt đứt đầu (Đ.Đ.1 của Đại úy 
Trần Kim Hoàng & Đ.Đ.3 của Trung úy Đinh Xuân Lăm), cắt làm đôi, rồi khóa chặt 
đuôi (Đ.Đ.2 của Đại úy Nguyễn Văn Hay & Đ.Đ.4 của Đại úy Nguyễn Xuân Phúc) để 
tiêu diệt bộ phận giữa (Bộ Chỉ huy & Tiểu đoàn trưởng TĐ2). 
 
Trận phục kích này, TĐ. Trâu Điên đă phản phục kích thật dữ dội kinh hoàng. Đánh 
hết sức ḿnh nhưng sức người có hạn, Tr/T Lê Hằng Minh cùng một số chiến sĩ anh 
dũng khác như Chuẩn úy Cầu v.v... đă gục ngă sau khi chọc thủng pḥng tuyến địch 
và kịp điều động các chiến sĩ Cọp Biển c̣n sống sót tập trung binh hỏa lực đánh 
thốc ngược trở lại pḥng tuyến thứ hai của VC. Chắc chắn là cho tới giờ nhắm 
mắt, Tr/T Minh cũng c̣n đủ trí minh mẫn để... chết trong niềm hănh diện v́ thế 
chiến thắng đă lật ngược được ngay sau 15 phút giao tranh và Tr/T Lê Hằng Minh 
đă oanh liệt đền nợ nước vào phút thứ 30. 
 
Chính v́ phản ứng mau lẹ, nhận định tổng quát trận địa và nắm được ư của địch, 
nên trận phục kích mà VC đă công phu mai phục từ 2 giờ sáng với quân số đông 
đảo, hỏa lực hùng hậu, chúng tin chắc chỉ sau 10 phút phát hỏa là hơn 400 chiến 
sĩ Cọp Biển sẽ rơi vào lưới lửa của VC. Kết quả sẽ là phân nửa bị hạ ngay đợt 
súng đầu tiên và một phân nửa bị lùa đi v́ lọt vào giữa “tổ ong” trùng điệp ngập 
quân thù và... đơn vị tiếp ứng nếu kịp lên tới trận địa th́ nhiệm vụ của họ là 
đi lượm xác đồng đội và lo dập tắt đám cháy của đoàn GMC trúng SKZ 57 ly. 
 
Nhưng kết quả trái lại. Đại tá Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn 1, đă phải nói 
thành thật rằng trong đời binh nghiệp của ông, kể cả hồi Pháp, chưa hề thấy trận 
phục kích nào lại biến thành trận phản kích tuyệt vời như trận đánh trên cây số 
34, tại quốc lộ 1 ngày 29/6/66 vừa qua. 
 
Dù đă bị thất thế, trong lúc VC mai phục ở vị trí do chính địch chọn lựa. Quân 
ta ngồi trên xe, SKZ bắn loạt mở đầu bên ta đă bị trúng đạn 14 xe. Tuy vậy, ai 
gục th́... đành chịu, c̣n lại tỉnh táo dựa lưng vào nhau tác chiến ngay...” 
 
(Trích ghi từ phần phóng sự chiến trường) 
 
V́ thế với sự phục kích đại quy mô, lực lượng hùng hậu là một Trung đoàn VC với 
sự chủ động chọn lựa địa h́nh mọi ưu thế nắm chắc cùng khẩu hiệu “phải chuẩn bị 
thật chắc ăn mới đánh” không ngờ gặp sự xung phong chiến đấu dũng mănh của các 
chiến sĩ Trâu Điên TĐ2/ TQLC cùng sự tài t́nh đảm lược của vị Tiểu đoàn trưởng 
khét tiếng đă biến thành trận phản kích lẫy lừng lần thứ nhất tạo thành trên 
chiến địa Việt Nam. 
 
Khi TĐT Lê Hằng Minh vừa gục ngă cũng là lúc bại quân VC đang cố t́m đường tháo 
chạy về hướng núi Hồ Bơi, Cánh Giơi v.v... Nhưng Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đă kịp thời 
bám sát truy lùng, chận đường tẩu thoát của địch. Giữa lúc trận đánh đang tiếp 
diễn các cánh quân của Nhảy Dù, Trung đoàn 3, Thiết quân vận M 113, Thủy quân 
lục chiến Mỹ đang rượt địch th́ tướng Walt, Tư lệnh Cọp Biển Hoa Kỳ đă ngồi trực 
thăng đi quan sát chiến trường. Mặt khác tướng Hoàng Xuân Lăm, Tư lệnh Quân đoàn 
I cũng cùng với Đại tá Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn I ngồi trực thăng theo 
sát trận địa. Tướng Walt từ trên nh́n xuống ở ven sông thấy có hai xác VC nằm 
chết gục bên cây đại bác 75 ly khổng lồ, Tướng Walt thận trọng cho gọi một đơn 
vị Cọp Biển, có thêm đoàn quân khuyển trực thăng vận xuống bao quanh khu vực 
này. Sau đó chính tướng Walt đă hạ cánh xuống nơi có cây đại bác 75 và tịch thu 
mang về Bộ Chỉ huy. 
 
Chỉ trong ṿng một tuần lễ với ba chiến thắng Lam Sơn 283 (Phù Lưu - Gia Đặng); 
284 truy kích tiểu đoàn 808 VC và 285 là trận phản phục kích thần sầu của Tiểu 
đoàn Trâu Điên tại mặt trận miền Trung đă vang dội khắp các chiến trường. Để 
viết nên những trang sử xanh này, Trung tá Lê Hằng Minh cùng một số các chiến sĩ 
oai hùng khác... đă vĩnh viễn ra đi từ chốn Tử Sinh! 
 
Đến đây, tôi cố h́nh dung ra buổi sáng kinh hoàng và đầy máu lệ hôm ấy. Một buổi 
sáng mai c̣n tươi đẹp ánh nắng vàng rực rỡ. Trên con đường quốc lộ số 1 chạy dài 
từ Huế ra đến Quảng Trị - Đông Hà, khói lửa đă bùng lên nơi đoạn đường Cầu Pḥ 
Trạch, Phong Điền - Thừa Thiên trên cây số 34. Trận chiến diễn ra thật khốc liệt 
chỉ hơn nửa tiếng thời gian nhưng đă lấy đi bao mạng sống con người và gây ra 
bao cảnh tang thương, từng ngày từng giờ trên quê hương điêu linh khốn khổ Việt 
Nam. Đă bao nhiêu chiến sĩ anh hùng đă nằm xuống như những người vừa ngă xuống 
nơi đây. Ḍng máu thanh xuân của họ đă chảy thắm trên mảnh đất cằn khô quê mẹ 
cho mạch sống tương lai được thêm phần tốt tươi. Những giờ phút kinh hoàng đau 
thương ấy chỉ diễn ra ngoài trận địa. Hậu phương, thành phố nơi tôi đang yên vui 
cắp sách đến trường, chỉ biết hồn nhiên với khung trời tuổi nhỏ, sống cuộc đời 
êm ả trong mái ấm gia đ́nh. Làm sao có thể biết rơ và thấu hiểu hết được sự hi 
sinh như thế nào của những người lính chiến và những tàn phá khổ đau trên quê 
hương khói lửa triền miên ngày ấy. 
 
Người chiến sĩ Lê Hằng Minh đă hiên ngang chiến đấu dưới màu cờ cùng đồng đội, 
chiến hữu. Và trong buổi sáng đẹp trời hôm đó, anh đă ra đi, dũng cảm và liệt 
oanh khi tuổi đời thanh niên của anh đang tràn đầy sức sống mạnh mẽ, trẻ trung. 
Chiếc đàn Guitaire yêu quư mà anh luôn mang theo bên ḿnh cũng đă vỡ tan trước 
mũi súng quân thù. Cuối tháng sáu, gió Hạ Lào đang thổi về như tiếng mẹ ru buồn 
bay lướt trên những dăy đồi trọc trống vắng quạnh hiu. Hồn anh du nhập theo bóng 
núi Trường Sơn trùng trùng ngạo nghễ, để lại xác thân bên ven bờ quốc lộ 1 những 
niềm đau nuối tiếc sống cuộc đời chưa phỉ, chưa đành đoạn xa rời những người 
thân yêu quư, xin cho trôi ra ḍng biển lớn bao la trước mặt, rửa sạch hết những 
hờn đau của một kiếp người. Nắng vàng tươi của buổi sớm mai đang trải rộng mênh 
mông trên mảnh đất cằn khô sỏi đá, tiễn đưa những người chiến sĩ đă sống và vừa 
chết cho quê hương. Những người con của Mẹ đă ra đi và nằm xuống, nhưng khí hùng 
bất tử của các anh vẫn là những giọt nắng vàng tươi lấp lánh và chiếu sáng trong 
hồn Dân tộc, trong ḷng những người c̣n lại hôm nay và măi đến muôn đời sau. 
Trung tá Lê Hằng Minh đă anh dũng đền xong nợ nước vào lúc 8 giờ 50 phút sáng 
tại chiến trường miền Trung năm 31 tuổi, ngày 29 tháng 6 năm 1966, trong bao 
niềm tiếc thương của bạn bè, thượng cấp và đồng đội chiến hữu khắp các đơn vị. 
 
Chiều hôm sau, chiếc quan tài phủ lá cờ Tổ quốc đă đưa người chiến sĩ Lê Hằng 
Minh về Sài G̣n. Chiều hôm ấy mưa rơi tầm tă, gió lạnh tơi bời như những niềm 
đau cắt ruột của những người thân trong gia đ́nh vừa mất đi một người con, người 
em, người anh thương yêu. Người mẹ đă cho đi bốn người con trai (Lê Minh Đảo, Lê 
Hằng Minh, Lê Hằng Nghi, Lê Quang Thạch) vào trong Quân ngũ. Sau này đă khóc 
trước sự ra đi vĩnh viễn của 2 người con (Tr/T LHM & T/S LQT) cùng năm tháng ṃn 
mỏi đợi chờ 2 người con c̣n lại trong lao tù Cộng sản mười mấy năm dài sau biến 
cố lịch sử 30/4/75 (Thiếu Tướng LMĐ & Đại úy LHN). Chiếc quan tài buồn đă được 
đưa về ngôi nhà mà Tr/T LHM đă được sinh ra và lớn lên ở Hàng Keo - Gia Định. 
Người Mẹ đă một thân C̣ nuôi dưỡng một đàn con với bao ḍng nước mắt đau khổ 
chảy xuôi. Hôm nay thêm một lần chảy xuống thành ḍng máu lệ trong trái tim của 
người mẹ hiền già nua héo hắt! Mọi người trong gia tộc đều thương tiếc và yêu 
thương LHM đến nỗi cho sơn chiếc quan tài màu trắng là màu ông rất ưa thích lúc 
sinh thời. Họ đều không được nh́n mặt ông lần cuối mà chỉ biết ôm lấy chiếc quan 
tài đă phủ kín xác thân, than khóc tiếc thương. Đám tang của ông được cử hành 
trọng thể, trang nghiêm với các lễ nghi quân cách, Tổ quốc ghi công, và an táng 
tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi - Sài G̣n. Cố Tr/T Lê Hằng Minh được ân thưởng: Đệ 
Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, với nhiều Anh 
Dũng Bội Tinh, Nhành Dương Liễu, Ngôi Sao Vàng, Bạc và nhiều huy chương khác của 
QLVNCH. 
 
Trên mộ là bức h́nh cố Trung tá Lê Hằng Minh mặc quân phục, đội nón sắt (do một 
phóng viên người Mỹ chụp và đăng h́nh trên báo Marine Corps Gazette & Time News) 
cùng khắc hai câu thơ “V́ tôi là lính áo rằn. Ra đi nào biết mấy trăng mới về”. 
Bởi ông đă chọn đời binh nghiệp, hiến cuộc đời cho Tổ quốc, sẵn sàng chấp nhận 
hi sinh nên đă không dám nghĩ đến t́nh riêng, sợ vướng khổ cho cuộc đời cô nhi 
quả phụ nên khi chết vẫn c̣n độc thân, chưa lập gia đ́nh. Cái chết của Tr/T Lê 
Hằng Minh đă là một cái tang xót đau lớn cho gia đ́nh, ngờ đâu 6 tháng sau lại 
thêm sự ra đi vĩnh viễn của người em gái kế là Lê Mộng Huyền đang là một cô giáo 
hiền ḥa tươi trẻ (dạy học trường Quốc Gia Nghĩa Tử), v́ không chịu nổi sự buồn 
đau trước cái chết đột ngột của người anh ruột mà cô hết ḷng yêu kính. 
 
Là một sĩ quan ưu tú của quân đội, là một nghệ sĩ vui tính với ngón đàn tuyệt 
diệu. Tr/T Lê Hằng Minh c̣n là một người con rất hiếu thảo với mẹ. Dường như ông 
biết đời lính chiến của ḿnh có thể ra đi bất cứ lúc nào nên ông đă viết một lá 
thư tỏ bày sự kính yêu cùng một khoản tiền dành dụm được lúc du học ở Hoa Kỳ, để 
lại cho mẹ sau ngày ông mất đi. Và đây là những ḍng hồi kư ông đă ghi lại những 
cảm xúc và tâm t́nh lúc bé thơ, thể hiện một con người đa cảm và nhân ái: 
 
“Ngày... tháng... năm... 
 
Bệnh viện Nguyễn Văn Học tục gọi là bệnh viện nhà nước hay nhà thương thí cũng 
thế. Anh em ḿnh lớn lên bên bệnh viện này, liên hệ mật thiết với nó như bóng 
với h́nh. Ḿnh chào đời vào lúc 8 giờ tối ngày 18/5/1935 tức (16/4 năm Ất Hợi) 
trong khu Bảo sinh, pḥng dành cho công chức, do bà sáu Nhiều đứng đỡ... 
 
Hầu như ḿnh thuộc nằm ḷng vị trí của bệnh viện, nào là pḥng khám bệnh, phát 
thuốc, trại 1, trại 2, trại 3, trại 4, trại 5, trại 7, trại Bùi Văn Lố và trại 
bảo sanh. Sở dĩ ḿnh nhớ như vậy v́ bao lần má sinh các em, nào lúc ba bệnh, 
những khi ḿnh ốm đau đều nhờ nó cả! 
 
Ḿnh lớn khôn, đi xa, thấy rộng, ḿnh có cảm tưởng càng ngày bệnh viện càng nhỏ 
hẹp lại, cằn cỗi, già... theo má ḿnh vậy! 
 
Mỗi lần đi xa trở về, đi ngang bệnh viện, ḿnh tŕu mến nh́n, có ư thưa: “Con 
mới về đây”. 
 
Ngoài má ra, bệnh viện này là bà mẹ thứ hai có công ơn nuôi dưỡng anh em ḿnh 
khôn lớn khỏe mạnh đến ngày nay!” 
 
“Ngày... tháng... năm... 
 
Đến trường 
 
Sáng hôm ấy, vào năm 1940, ḿnh được má đưa đến trường Mac Ferrando - Gia Định. 
 
Đêm trước, ḿnh thấy nao nao, cảm giác là lạ khi nghe ngày mai ḿnh phải đi học. 
Ḿnh thấy ba má, chị Hai, chị Ba, anh Tư đều bận rộn việc đi học của ḿnh. Nhứt 
là anh Tư *, anh vỗ tay dí vào mũi ḿnh, vừa nhảy cà tửng vừa chộ ḿnh. “Ê, mai 
mày đi học rồi. Ê, ê...”. Ḿnh nghĩ có lẽ v́ ảnh đi học mà ḿnh ở nhà đi chơi 
với anh Xái nên ảnh tị, bây giờ nghe ḿnh đi học ảnh khoái lắm! 
 
Sáng sớm, bị ba đánh thức rất sớm, ḿnh ăn lót ḷng cháo trắng với đường, ba cho 
ḿnh “hai đồng nửa xu” mới tinh, tay ôm cuốn dầu “con thỏ và con rùa”, tay phải 
nắm tay má rụt rè tới trường... thỉnh thoảng ḿnh buông tay má vạch túi xem hai 
đồng nửa xu c̣n không. 
 
Đến cổng trường, trời... học tṛ sao mà đông thế. Những đứa lớn đùa giỡn, la 
lối, rượt bắt nhau như ong vỡ tổ. Mặt ḿnh lúc ấy h́nh như mếu rồi, ḿnh sợ quá 
nắm tay má thật chặt, mặt cứ rúc vào tà áo dài bằng hàng trắng thật mới của má, 
ḿnh ngửi mùi hàng thấy ngọt ngào làm sao! Có những tên lạ cũng mếu, ngơ ngác 
theo ba má chúng đi xin học như ḿnh! 
 
Trước căn pḥng hiệu trưởng, nhiều người d́u con đi học nên có sự chen lấn xảy 
ra. Có một tên chèn ḿnh v́ bị ba nó kéo lên phía trước... Suưt chút bị sút tay 
khỏi tay má, ḿnh sợ lạc má nên vội thúc vào hông nó thật mạnh khiến hắn khóc ré 
lên... 
 
Đến phiên ḿnh vào, trời khiếp, ông Đốc Măo sao to béo thế. Ông cầm đơn xin học 
của ḿnh đoạn nhướng mắt nh́n ḿnh qua làn kính trắng, giọng oang oang hỏi má: 
“Tṛ Minh chưa đủ tuổi mà học cái ǵ?”. Má vội đưa tấm danh thiếp giới thiệu của 
ông Dournot, thanh tra người Pháp, ông này quen với ba sao đó. Bấy giờ ông Đốc 
Măo “dịu giọng” ngay: “Thôi được” và ra lệnh người tùy phái dẫn má và ḿnh đến 
lớp năm A gặp thầy Phước làm ḿnh thất vọng quá. Đang hi vọng trở về v́ chưa 
đúng tuổi! Mặt méo xẹo, riu ríu theo má đi gặp thầy Phước, tay ông đang cầm cây 
thước nhịp nhịp vào không khí, ḿnh thấy ông ta nghiêm quá, vội rúc vào ḷng má, 
ôm chân má thật chắc. Thầy Phước khẽ cười, cúi đầu đáp lễ má và nói: “Dạ, bà 
giao em cho tôi”, tay th́ nắm lấy tay ḿnh kéo đi, ḿnh khóc rú lên “má ở đây má 
ơi!”, má cười gượng, gỡ tay ḿnh đang ôm đùi má và an ủi ḿnh: “Không sao đâu 
con, má phải về c̣n đi chợ nữa chớ”. Ḿnh cố gào thét nhưng vô hiệu! 
 
Má đi rồi, thầy Phước vừa dỗ vừa dọa, tay ông cầm cây thước dọa dọa. Không c̣n 
má, ḿnh thấy bơ vơ trong thế giới của học đường và sợ hăi trước ông giáo xa lạ, 
ḿnh hết dám khóc. Thầy Phước d́u ḿnh đến ngồi bàn thứ hai. 
 
Ḿnh lấy tay áo mới, chùi mắt và mũi, khẽ liếc chung quanh, thấy các bộ mặt 
“mếu” chẳng khác ǵ ḿnh, chúng đang lấm lét nh́n ông thầy. Ḿnh thấy dường như 
vừa mất mát cái ǵ to lớn lắm! 
 
(*) (Anh Tư: Thiếu Tướng Lê Minh Đảo) 
 
Ngày... tháng... năm... 
 
Ngày băi trường đầu tiên 
 
Ḿnh làm quen thế giới học đường được một năm rồi, sau kỳ thi tất cả 52 đứa đều 
được lên lớp tư. Không biết thông lệ từ hồi nào, ngày băi trường là học sinh 
đóng tiền liên hoan đăi Thầy do các tên lớn đề xướng và tổ chức. 
 
Hôm ấy, từ lớp tư trở lên đều liên hoan rầm rộ. C̣n lớp ḿnh im ru buồn hiu v́ 
toàn là bé con. Chẳng có tên nào lănh đạo, thành lớp ḿnh buồn hơn đám ma! 
 
Có lẽ cảm thấy nỗi buồn ấy, hơn nữa sắp xa đám học tṛ, các tác phẩm do chính 
tay ḿnh gầy dựng cả năm trời... bất thần có tiếng leng keng của người Tàu già 
bán kẹo đục đi qua. Thầy Phước vội kêu vào bảo đục 53 phần kẹo, mỗi phần một xu! 
 
Năm mươi ba phần kẹo được đục xong, thầy Phước móc bóp đếm cẩn thận năm tờ giấy 
một cắc và ba đồng xu, trả tiền kẹo, tay run run... 
 
Lúc ấy, ḿnh hết nh́n người bán kẹo lại nh́n thầy Phước, xong lại nh́n 53 phần 
kẹo, miệng nuốt nước bọt. Ḿnh thấy thương thầy Phước quá, bao nhiêu lần bị 
phạt, bị đ̣n trong năm đều tiêu tan hết... 
 
Thầy Phước tay chắp sau đít, đi qua đi lại như bao ngày, ông ho gằn mấy tiếng có 
lẽ v́ cảm động, đoạn nói: “Các em, hôm nay ngày băi trường, thầy tṛ ḿnh bắt 
đầu xa nhau... Hôm nay, thầy đăi các em một xu kẹo đục, bắt đầu tṛ Ẩn đi lên 
lần lượt lănh kẹo”. Tụi ḿnh lănh hết, c̣n lại một phần, ông cầm lấy và ra lệnh 
ăn. Đứa nào đứa nấy mặt hớn hở nh́n Thầy đầy tŕu mến! 
 
Trong đời ḿnh, có lẽ không có bữa tiệc nào quư và cảm động bằng một xu kẹo đục 
của thầy Phước...” 
 
Tâm hồn Lê Hằng Minh giàu cảm t́nh và nhân hậu là thế, nên khi hồi tưởng lại 
giây phút tôi gặp chú lúc đi lạc giữa súng ống và binh lính ngổn ngang, sợ hăi 
đứng khóc một ḿnh trong ngày biến cố đảo chánh ở thành Cộng Ḥa. Đang là vị sĩ 
quan chỉ huy và cũng chắc rất đang bận rộn với những trách nhiệm của ḿnh, vậy 
mà chú cũng đến bên tôi, dỗ dành cho nín khóc và đưa về tận nhà. Đó là h́nh ảnh 
tôi không quên qua nghĩa cử của một người có tấm ḷng nhân ái đối với trẻ em. Và 
cũng từ cơ duyên đó, 38 năm sau tôi mới có dịp viết, vẽ lại chân dung người lính 
Việt Nam Cộng Ḥa cao đẹp qua h́nh ảnh cố Trung tá Lê Hằng Minh. 
 
Chú Minh ơi, sau khi cánh cổng rào nhà cháu khép lại, là từ đó cháu không bao 
giờ c̣n gặp lại chú nữa. Nhưng hôm ấy, cháu c̣n giữ lại nơi chú một nụ cười tŕu 
mến vỗ về, dù cháu đă hết sợ và nín khóc từ lúc mới gặp chú. Cả ngày hôm đó, con 
bé tám tuổi vẫn nhớ tới chú v́ c̣n giữ mấy cánh hoa sứ trắng trong túi áo mà chú 
đă nhặt và hái cho. Cháu đă đem ép vào những cuốn sách mà cháu yêu thích nhất v́ 
nghĩ hương thơm hoa sứ sẽ c̣n hoài trên những trang sách đó. Thỉnh thoảng qua hồ 
tắm Nguyễn Bỉnh Khiêm chơi và đi lượm hoa sứ rụng, cháu vẫn c̣n nhớ tới chú với 
lời hẹn hôm nào gặp lại sẽ được chú đàn cho nghe như lời chú hứa. Mà chẳng biết 
tới bao giờ đây (?).Hơn một năm sau, nhà cháu dọn ra khỏi cư xá đi nơi khác và 
chút kỷ niệm thân ái bé nhỏ ấy cũng dần nhạt nḥa theo những ngày tháng cháu lớn 
khôn thêm. Một đôi lần cháu theo mẹ vào Tổng Y Viện Cộng Ḥa thăm ba cháu những 
lúc ông bị thương, cháu lại nh́n thấy những hàng bông sứ trắng được trồng dọc 
theo mấy dăy hành lang bệnh viện trắng toát u buồn, làm những cánh hoa rơi khẽ 
chỉ lặng lẽ tỏa hương để không gian nhẹ bớt phần thê lương của những người 
thương binh. Cháu lại thoáng nhớ đến chú rồi lại quên trong cái tuổi hồn nhiên 
vô tư lự. Vài năm sau, có một lần cháu sang nhà hàng xóm chơi, thấy sân nhà bác 
Thiếu tá Nhàn mới nở mấy cây hoa sứ kiểng rất đẹp. Cháu hỏi xin, bác từ chối, 
cháu cố năn nỉ: “Cháu chỉ xin bác một bông thôi, bác xem có bông nào xấu nhất, 
bác cho cháu nhé!”. Bác Nhàn bật cười: “Hoa nào cũng đẹp, chỉ có mỗi bác Nhàn là 
xấu thôi, không có hoa nào xấu cả, cháu ơi”. Bác Nhàn nói thế để lờ đi đấy mà 
(Dĩ nhiên là không rồi, v́ đó là hoa kiểng của bác mới nở được có mấy bông). 
Nhưng lúc ấy cháu c̣n trẻ con, nên nghĩ bụng, bác Nhàn xấu thật, ḿnh xin có mỗi 
một hoa nào xấu nhất, vậy mà bác cũng không cho. Rồi cháu chợt nhớ tới chú, tới 
những bông sứ trắng nơi hàng cây bóng mát tuổi thơ của cháu ngày nào mà đă có 
lần được chú hái cho bỏ đầy hai túi áo ngày xưa. 
 
Năm tháng trôi qua với biết bao đổi thay, biến động của cuộc sống và t́nh h́nh 
đất nước, cháu đâu c̣n có dịp nào để nhớ lại câu chuyện bé nhỏ ngày xưa ấy. Cho 
đến một hôm, trước ngày Quân lực 19/6/02 vài ngày, cháu t́m hiểu và liên lạc với 
một số vị chỉ huy của những trận chiến oai hùng của Quân đội VNCH để phỏng vấn 
trong chương tŕnh phát thanh “Tiếng Việt mến yêu” nhân dịp kỷ niệm ngày Quân 
lực VNCH. T́nh cờ cháu nh́n thấy h́nh của chú trên b́a đặc san Sóng Thần - 2002 
trong văn pḥng làm việc, cháu thấy khuôn mặt và nụ cười của người lính này sao 
nh́n quen quá, rất quen, rồi... không sao nhớ thêm được tí nào nữa. Cháu vẫn nhớ 
chú tên Minh nhưng không biết nguyên tên họ chú là Lê Hằng Minh. Ngay lúc đó 
cháu cũng đang đọc cuốn bút kư “Cuộc chiến dang dở” của chuẩn tướng Trần Văn 
Nhựt (cũng là bạn học với chú) vừa gửi tặng. Đến đoạn viết về cuộc đảo chánh 
ngày 1/11/63 với sự tham dự TĐ4/ TQLC của chú, cháu mới chợt nhớ ra như ḍng 
suối đă được khơi nguồn. Câu chuyện và những h́nh ảnh đă lăng quên, nay giật 
ḿnh nhớ lại th́ đă 36 năm trôi qua. Cháu cũng không biết rằng sau lần gặp chú 
th́ chỉ hơn hai năm sau, chú đă anh dũng hi sinh trong cuộc chiến ở miền Trung, 
và cũng không hề biết chú là em của Th/Tướng Lê Minh Đảo dù đă tṛ chuyện với 
ông vài lần qua một cuộc phỏng vấn trên Đài Phát Thanh. Thêm một t́nh cờ ngẫu 
nhiên khi cháu nhớ ra chú và muốn t́m hiểu thêm về trận đánh ngày 29/6/66, lúc 
tiếp chuyện với Đại tá Ngô Văn Định là người thay thế chức vụ Tiểu đoàn trưởng 
TĐ2/ TQLC ngay buổi chiều chú vừa hi sinh, cháu nhắc với ông: “Hôm nay là ngày 
giỗ của chú Lê Hằng Minh, ngày 29 tháng 6”. Ông cũng bùi ngùi nói: “Đó là người 
chiến hữu thân của tôi đă mất cách đây đúng 36 năm, không ngờ hôm nay c̣n có 
người nhắc nhớ và viết đến. Cám ơn cô Ngọc Thủy!”. Rồi ông liên lạc ngay với 
người bạn rất thân của ông từ nhiều năm qua và cũng là một người bạn rất thân 
mến từng sát cánh cùng chú trong nhiều năm binh nghiệp hiện đang định cư ở Iowa 
là Đại tá Tôn Thất Soạn, và bất ngờ trong một cuộc điện đàm, Đ/T Tôn Thất Soạn 
có cho cháu biết ông đă nghe được câu chuyện này cách đây hơn ba mươi năm về 
trước: “Trong ngày 1/11/63, TĐ4/ TQLC chia ra làm 2 cánh quân. Lúc đó tôi là 
Tiểu đoàn phó TĐ4/TQLC giữ cánh B đóng ở Nha Cảnh sát, c̣n Tiểu đoàn trưởng Lê 
Hằng Minh th́ đưa cánh quân A qua thành Cộng Ḥa. Sau ngày đảo chính, có một 
lần, anh ngồi cười kể cho tôi nghe chuyện gặp một cô bé đi lạc, anh đă đến dỗ 
dành và đưa cô bé ấy về nhà. Tôi nghe anh Định kể về nguyên nhân câu chuyện của 
cô muốn đi t́m chi tiết để viết về anh Minh là tôi nhớ lại ngay cũng câu chuyện 
này đă từng được nghe Lê Hằng Minh kể, tôi không ngờ cô bé đi lạc hồi đó là cô 
Ngọc Thủy bây giờ”. Và sau đó ông đă gởi ngay cho cháu một bài viết về một số 
những trận đánh ông từng tham dự sát cánh với chú, trong đó có đoạn: Trong những 
ngày diễn tiến của biến cố 1/11/63, Tiểu đoàn 4/ TQLC đă hoàn thành nhiệm vụ 
giao phó mà không gây thiệt hại ǵ cho đơn vị đối phương hoặc dân chúng địa 
phương. Điều này đă nói lên được tinh thần kỷ luật của đơn vị rất cao cũng như 
t́nh Quân dân như cá nước của các chiến sĩ Ḱnh Ngư (TĐ4/ TQLC) mà điển h́nh là 
một câu chuyện kể của người anh cả Ḱnh Ngư (TĐT Lê Hằng Minh) một ngày sau đó 
(1/11/63): “Với quân phục rằn ri cọp biển, đi đứng hiên ngang hùng dũng, nón sắt 
chiến trận nặng nề, chụp trên đầu của khuôn mặt sạm nắng, cặp mắt quầng thâm 
thiếu ngủ, với bộ ria mép rậm rạp như trong phim “cow boy” Mexico, với dây súng 
gắn dài đạn đồng đeo chéo ngực v.v... khiến ai nh́n mà không khiếp đảm, huống hồ 
là một em bé gái bé bỏng 8 tuổi của đô thành hoa lệ Sài G̣n, nào có biết chiến 
tranh là ǵ; nên khi Đ/U Minh và các binh sĩ từ trên xe GMC nhảy tràn xuống 
đường gần thành Cộng Ḥa để chiếm các vị trí bố pḥng dọc theo nhà dân hai bên 
vệ đường, khiến em bé gái này sợ hăi quá, khóc thét lên... Tuy với vóc dáng bên 
ngoài “gồ ghề” là thế, vậy mà bên trong chứa ẩn một trái tim nhân hậu và đầy 
t́nh cảm. Đ/U Minh người anh cả Ḱnh Ngư, đă quỳ một chân xuống bên cạnh em bé 
gái đó, để đưa tay vuốt tóc em bé cho đỡ sợ và nói những lời an ủi dịu ngọt để 
cho em vững tâm mà nín khóc... Sau đó em bé đă hiện nét mặt vui mừng, tṛ chuyện 
và anh đă đưa cô bé về nhà gần đó...”. Đại úy Minh đă kể lại cho tôi nghe câu 
chuyện này vừa xảy ra hôm qua với nét mặt hân hoan của một người nhân hậu vừa 
làm được việc tốt lành. Tôi có nghe nhưng rồi cũng bỏ qua, nhưng không ngờ sau 
38 năm, lại được em bé gái đó, bây giờ là một nữ văn sĩ hiện định cư ở San Jose, 
Cali... lúc đọc được ĐSST - 2002, đă bất ngờ nh́n thấy lại h́nh cố Tr/Tá Lê Hằng 
Minh trên trang b́a sách của đặc san. Một kỷ niệm trong sáng của một thời thơ ấu 
đă gợi lại h́nh ảnh một anh hùng mũ xanh của năm nào! Nhưng thật đáng buồn, v́ 
bây giờ người anh hùng đó đă thành người thiên cổ!” 
 
Nghe ông Đ/T Soạn nhắc lại cháu rất cảm động, nên viết thành mấy câu thơ: 
 
Sao người không tặng cho tôi 
một bông sứ trắng cho đời thơm hương 
Tặng chi tôi một giọt sương 
Trên bông hồng đỏ, dễ thường không khô? 
Biết đời như một giấc mơ 
Th́ tôi xin một phút chờ cho vui! 
Nhớ bông sứ trắng một thời 
Có con bướm trắng bay rồi, đă bay... 
(Thơ N.T.) 
 
Chú Minh ạ, cháu thật sự xúc động bởi chú không những là người lính có t́nh 
người nhân hậu và trái tim nghệ sĩ năm xưa cháu đă gặp, mà qua chú sống dậy 
trong ḷng cháu những h́nh ảnh thật kiêu hùng cùng những hi sinh quả cảm của 
những người trai thời loạn đă dành cho Tổ quốc Việt Nam: sự sống và tuổi trẻ 
cùng tấm ḷng yêu dân tộc quốc gia. Hơn nữa, chú và hàng trăm vạn người lính trẻ 
khác đă chiến đấu và đă chết cho quê hương. Đó là những anh hùng không tên tuổi. 
Nhưng Tổ quốc và ḷng người dân Việt không bao giờ quên họ. Trong ḍng cảm xúc 
này cùng sự hỗ trợ từ những người thân của chú, cháu mong được nhắc nhớ lại h́nh 
ảnh của một chiến sĩ Lê Hằng Minh, cũng là h́nh ảnh của muôn ngàn người anh hùng 
không tên tuổi mà cháu rất kính phục và biết ơn họ đă dâng hiến cuộc đời cho tổ 
quốc non sông và đă “vị quốc vong thân”, đem lại yên vui êm ấm cho bao người 
trong đó có cả những tháng ngày thơ ấu, tuổi trẻ của cháu đă hưởng được sự an 
lành tốt đẹp. 
 
Chú Minh biết không, nh́n những bức h́nh của chú trước mặt, cháu thấy lại nguyên 
vẹn h́nh ảnh của người đại úy trẻ đă nh́n cháu với nụ cười tŕu mến vỗ về và 
cháu vẫn là cô bé tám tuổi đi lạc ngày nào, không có thời gian cách biệt. Nhưng 
có một điều, cháu sẽ chẳng bao giờ gặp lại để chú đánh đàn cho nghe, và những 
cánh hoa sứ ép khô cùng hương hoa ngày cũ trên những trang sách đẹp ngày xưa của 
cháu đă trôi lạc theo ḍng đời bể dâu đă từ lâu lắm rồi... không t́m thấy nữa. 
 
Sau ngày chú ra đi, ngủ yên trong ḷng đất mẹ, chín năm sau, miền Nam tự do thân 
yêu của chúng ta đă rơi vào tay cộng sản. Đă 27 năm qua, quê hương vẫn lầm than 
tăm tối. Bây giờ cháu đang sống ở xứ người, ḷng vẫn nhói đau mỗi khi đọc những 
mẩu tin tức ở quê nhà, bao nhiêu là thảm cảnh và tệ trạng, bao nhiêu là bất công 
phi lư, cuộc đời những người dân nghèo Việt Nam vẫn triền miên đọa đày trong đói 
khổ lầm than. Đó là những tiếng kêu như rên xiết, xé ruột trong ḷng mà cháu 
không biết ḿnh phải làm sao! Cháu biết chú cũng buồn như cháu và mọi người khi 
thấy quê hương thân yêu ḿnh qua bao năm vẫn điêu linh khốn khổ, chưa có được 
ngày đẹp tươi của ánh sáng Tự do - Giàu mạnh cho mọi người được hưởng cuộc đời 
văn ḿnh, ấm no chung. 
 
Thôi để cháu nói qua chuyện khác cho chú nghe nhé. Bây giờ cũng đang là mùa hạ ở 
xứ Mỹ này, ở đây không có hàng cây bông sứ trắng như ở quê nhà, nhưng có một 
loài hoa khác rất đẹp cũng rộ nở vào mùa hè, đó là hoa Magnolia, c̣n được gọi là 
hoa Thiết Mộc Lan. Hoa màu trắng, nở to như hoa sen làm mát rượi cả một mùa hè, 
mát cả con đường cháu vẫn đi qua hàng ngày. Với cánh hoa tươi đẹp này cháu xin 
gởi tặng chú trong ngày giỗ thứ 36 của chú hôm nay. Và cũng xin kính tặng hai 
bài thơ nhỏ để tưởng nhớ đến chú cùng dâng lên anh linh các chiến sĩ Việt Nam 
Cộng Ḥa đă hi sinh cho Tổ quốc Việt Nam: 
 
SAU CUỘC CHIẾN 
Người lính đó không về sau cuộc chiến 
Phố vẫn đông trong những ngày cuối tuần 
Ngôi Giáo đường rung hồi chuông cầu nguyện 
Nửa cho chàng, nửa cho khắp Việt Nam! 
 
Ngọc Thủy 
Mùa hè 29/6/2002 
 
NGƯỜI CHIẾN SĨ MŨ XANH 
Hồi năm tám tuổi tôi đi lạc 
Người dẫn tôi về: Lê Hằng Minh! 
Ba tám năm rồi, tôi vẫn nhớ 
Người gọi tôi là cô bé xinh! 
Trong tôi h́nh ảnh người không mất 
Măi măi anh hùng của Việt Nam 
Người lính dễ thương và lẫm liệt 
Khiến tôi yêu măi Nước cùng Non. 
Ba tám năm rồi, người đă 
mất * 
Giang sơn buồn quá... cũng như người! 
Tôi và triệu triệu người xa xứ 
Buồn quá cứ nh́n mây trắng trôi! 
Tôi lật từng trang buồn kư ức 
Từng trang nước mắt đọng bao giờ! 
Một lần tháng sáu ngày hai chín 
Tôi gởi về người: thân ái xưa! 
Ba tám năm rồi, tôi mấy 
tuổi? 
Người ơi... tôi biết người thiên thu! 
Lê Hằng Minh hỡi, trên sông núi 
Hồn xác người đâu? đang ở đâu? 
Có thể đă tan cùng cát bụi? 
Hay là đang quyện khói hương đây? 
Trên đường trận mạc, người đi tới 
Áo trận bao lần mưa nắng phai... 
 
Ba tám năm rồi như giấc mơ! 
Non sông Tổ quốc... chuyện không ngờ! 
Có người nhắc Huế rồi lau mắt 
Nhắc những anh hùng, thôi, đủ chưa? 
Lê Hằng Minh ở trong ḷng Huế 
Cùng bạn bè đi vào sử xanh 
Một nén hương thơm mà ấm nhỉ 
Tôi đi khép lại cửa mông mênh! 
 
Hồi năm tám tuổi, tôi đi lạc 
Không gặp người th́ tôi ra sao? 
Nhiều lúc giật ḿnh tôi nhớ lại: 
Tuổi thơ là một giấc chiêm bao! 
Người mất, tuổi tôi c̣n bé lắm 
Bây giờ vẫn bé đến muôn năm 
Nếu người c̣n sống tôi c̣n lạc 
Lại được người d́u mỗi bước chân? 
 
Lê Hằng Minh hỡi! thương mến chú! 
Những giọt lệ từ “cô bé xinh” 
Xin rót xuống đây - ḷng biển cả 
Ḷng người chan chứa một niềm tin 
Rằng mai đất nước ḿnh tươi thắm 
Huế dựng uy nghi một tượng đài 
Trong khói nhang thơm trùm quá khứ 
Bao người vị quốc đă vong thân! 
 
* (Trung Tá Lê Hằng Minh đă anh dũng hi sinh lúc 31 tuổi tại mặt trận miền 
Trung, Vùng I Chiến thuật ngày 29 tháng 6 năm 1966). 
 
CHÚT HƯƠNG TRONG GIÓ 
 
Sáng, em nh́n một đám mây 
Trời xanh, mây trắng, chút này đủ thương! 
Gió như c̣n chở chút hương 
Của hoa sứ trắng trong vườn mộng xưa... 
 
Sáng mà sao em c̣n mơ 
Ai kia trong đám lá chưa nhuộm vàng? 
Nghĩ hoa sứ chắc giờ tan 
Như mây trắng lát bay ngang mặt trời... 
 
Ơi hoa sứ một thời ơi 
Buồn trong con mắt cuối đời không chao? 
Ai kia trong đám lá chào? 
Không đâu! Gió động cành đào xuân duyên... 
 
Trả cành hoa sứ cho em * 
Trả luôn những bước chim chuyền b́nh minh! 
Hỡi ơi em nói một ḿnh 
Cành xuân gió động, giọt t́nh... là sương! 
 
N.T. 
* (hoa Sứ c̣n được gọi là hoa Đại) 
 
ANH HÙNG VÔ DANH 
 
Họ là những anh hùng không tên tuổi 
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh 
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh 
Nhưng can đảm và tận t́nh giúp nước. 
 
Họ là kẻ tự ngh́n muôn thuở trước 
Đă phá rừng, xẻ núi lấp rừng sâu 
Và làm cho những đất cát hoang vu 
Biến thành một dải sơn hà gấm vóc... 
 
Họ là những anh hùng không tên tuổi 
Trong loạn ly như giữa lúc thanh b́nh 
Bền một ḷng dũng cảm chí hi sinh 
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch. 
 
Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách 
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên 
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên 
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật 
 
Nhưng máu họ đă len vào mạch đất 
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông 
Và anh hồn chung với tấm t́nh trung 
Đă ḥa hợp làm linh hồn giống Việt. 
 
Đằng Phương 
			 |