[_templates/thtqlcvn-header.htm]

 

Kư sự về Lê Hằng Minh: Một thời để nhớ ...

Ngọc Thủy

Viết về Cố Trung Tá Lê Hằng Minh
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 / Thủy Quân Lục Chiến

Gươm đàn nửa gánh,
Non sông một chèo
(Nguyễn Du)


Đất nước Việt đang thời binh biến, Tổ quốc lâm nguy, vang dậy núi sông những lời hiệu triệu anh hào. Khi tôi chưa chào đời th́ vào giữa năm 1954, theo đoàn người trai quyết xếp bút nghiên để lên đường theo tiếng gọi non sông, làm tṛn trách nhiệm người công dân trong thời quê hương khói lửa. Người thanh niên tên Lê Hằng Minh đă từ giă người mẹ hiền, rời bỏ cuộc sống gia đ́nh ấm êm nơi Hàng Keo - Gia Định, từ giă mái trường Huỳnh Khương Ninh & Trương Vĩnh Kư sau khi tốt nghiệp Tú Tài để cùng người anh Lê Minh Đảo (thiếu tướng Lê Minh Đảo gia nhập khóa 10 trường Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt, là một trong số những tướng lănh của Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa), lên đường nhập ngũ. Ông theo học khóa 5 Liên Trường Vơ Khoa Thủ Đức (Khóa V́ Dân) và sau khi ra trường vào đầu năm 1955 với cấp bậc Thiếu Úy Trừ Bị, người chiến sĩ Lê Hằng Minh đă cùng bao chiến hữu khác ngược xuôi khắp nẻo đường đất nước, xông pha vào những trận tuyến ngăn giữ bước quân thù xâm lăng, hầu mong mang yên vui cho mảnh đất miền Nam Tự Do thân yêu. Đầu năm 1957, v́ muốn vẫy vùng ngang dọc hơn cho thỏa chí tang bồng, ông rời khỏi Sư đoàn 4/ Bộ binh dă chiến (sau này là Sư đoàn 7/ BB) để t́nh nguyện gia nhập Thủy Quân Lục Chiến, Lực lượng Tổng Trừ Bị ṇng cốt của Quân đội VNCH và lần lượt đảm trách các chức vụ: Trưởng Ban 5 TQLC, Trung đội trưởng (Tiểu đoàn 1), Đại đội trưởng (Tiểu đoàn yểm trợ), (Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4), Chiến đoàn phó (Chiến đoàn A) và Tiểu đoàn trưởng (Tiểu đoàn 2/ TQLC).

Tham dự nhiều chiến dịch quan trọng cùng những trận đánh hào hùng trên khắp các mặt trận chiến trường đất nước từ: Đồng Xoài, U Minh, Bời Lời, Đầm Dơi, Bến Cát, Đức Cơ, Plei-me, B́nh Định, Bồng Sơn - Tam Quan, Quảng Ngăi, Thừa Thiên, Huế, Phù Lưu, Quảng Trị v.v... Với những thành tích chiến đấu dũng cảm, Lê Hằng Minh được thăng cấp Trung úy sau hai năm ra trường và được gởi đi du học khóa Sĩ quan TQLC ở Quantico - Hoa Kỳ năm 1959 - 1960. Đầu năm 1959, Lê Hằng Minh đưa Đại đội Trinh Sát TQLC/ Tân Lập về Sài G̣n tham dự khóa học Nhảy dù ở Trung tâm Huấn luyện Hoàng Hoa Thám tại Bà Quẹo. Trong thời gian huấn luyện này, ông chứng tỏ sự gan dạ và là một cấp chỉ huy gương mẫu, xứng đáng làm gương và hướng dẫn quân nhân thuộc quyền noi theo không nề hiểm nguy. Yêu thích đường bay trên những nấc thang mây thênh thang của người lính Nhảy Dù, Lê Hằng Minh luôn hănh diện khi chỉ cho mọi người xem huy hiệu “Cánh Dù” luôn gắn trên túi áo ngực mà ông đă đạt được sau khóa huấn luyện. Trong biến cố 11/11/60, ông cùng Đại Đội Chiến Đấu/ TQLC về giải vây cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Sau đó, năm 1960 ông giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Yểm trợ tiếp vận/ Thủy Quân Lục Chiến. Và rồi nổi trôi theo vận hạn quốc gia cùng t́nh h́nh đất nước rối ren, thêm một lần nữa, vị Tiểu đoàn trưởng Lê Hằng Minh của TĐ4/TQLC lại là một trong những đơn vị tham gia cuộc đảo chánh Tổng thống vào ngày 1/11/63. Những biến cố đất nước cùng những thăng trầm của cuộc đời binh nghiệp vẫn không làm mất đi tinh thần quả cảm của một người chiến sĩ với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ cùng tinh thần trách nhiệm đối với đồng bào Tổ quốc, ông vẫn cùng với bao lớp người thanh niên chiến hữu luôn giữ vững sự cang cường chiến đấu như ánh thép gươm đao vẫn lóe sáng mỗi khi lâm trận ngoài địa đầu giới tuyến. Sau khi tu nghiệp khóa AWS ở Hoa Kỳ về (1964 - 1965), đầu tháng 11/1965, Thiếu tá Lê Hằng Minh được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng TĐ2/ TQLC và tên tuổi ông đă gắn liền với danh hiệu “Trâu Điên”, một tiểu đoàn lừng danh của Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói riêng và của Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa nói chung từ trận đánh An Quư vào tháng 2/1966 ở Bồng Sơn - Tam Quan. Từ tư thế bất ngờ bị phục kích khi tiến chiếm mục tiêu ấp chiến lược này, dù bị bao vây tứ phía bởi sự bố trí sẵn bên ngoài lẫn sự pḥng thủ rất mạnh của VC bên trong, bị bắn phá nă đạn như mưa vào các toán quân, nhưng điều đó không làm chùn bước được của những người lính luôn luôn trong tư thế chuẩn bị, sẵn sàng xung phong nên ngay giữa cánh đồng trống, không nơi ẩn nấp, vị TĐT đă cùng với tất cả các chiến sĩ lúc ấy vẫn hiên ngang tràn vào và tiến lên dũng mănh đến nỗi VC phải khiếp sợ với khí thế hăng như trâu điên của TĐ2 quyết băng ḿnh phá tan lằn lửa đạn, dù phải đối chọi với tử sinh chạm gần trong gang tấc. Kết quả TĐ2/ TQLC toàn thắng chiếm hẳn được mục tiêu tuy phải chịu sự tổn thất vừa chết vừa bị thương mất gần một trung đội, trong số đó có Trung úy Nguyễn Ngọc Điệp (khóa 17/ VBĐL) v.v...

Với chiến tích “phản phục kích” vẻ vang này, Tiểu đoàn do Thiếu tá Lê Hằng Minh chỉ huy và yêu cầu sự đề đạt danh hiệu, đă được Bộ tư lệnh TQLC chấp thuận cho mang danh xưng Trâu Điên (Crazy Buffalo) biểu tượng sự Cảm Tử, Hi Sinh và Dũng Mănh. Ngoài ra c̣n được tuyên dương công trạng trước Quân đội lần thứ tư và được mang dây biểu trưng màu xanh Quân Công Bội Tinh. Bắt đầu từ đó, các tiểu đoàn khác cũng được đặt tên để có những danh hiệu riêng như: Quái Điểu, Sói Biển, Ḱnh Ngư, Hắc Long, Thần Ưng, Hùm Xám, Ó Biển, Mănh Hổ.

Người lính Lê Hằng Minh như chúng ta đă thấy là một chiến sĩ rất gan ĺ và quả cảm khi xông pha ngoài mặt trận, bởi ông luôn đặt trọng trách hi sinh v́ Tổ quốc lên hàng đầu. Nhưng bên trong con người của ông lại là một nghệ sĩ giàu cảm tính và nhân hậu. Ông sinh trưởng trong một gia đ́nh lễ giáo gồm 10 anh chị em. Người mẹ đă tần tảo một ḿnh lo bảo bọc các con khi người Cha đă qua đời năm ông 17 tuổi. Sống và lớn lên từ ngôi nhà cổ kính giữa vườn cây bóng mát xum xuê nơi Hàng Keo nằm trên đường Chi Lăng nối dài, gần chợ Bà Chiểu cạnh đền Lăng Ông nổi tiếng hiển linh, khói trầm nghi ngút quanh năm bên mộ Tả quân Lê Văn Duyệt vẫn tỏa sáng uy linh của bậc trung thần đại nghĩa, phải chăng đă ảnh hưởng phần nào đến tâm t́nh con người Lê Hằng Minh từ thuở nhỏ. Thích sống đời trai oai phong dũng mănh nhưng cũng là người yêu văn nghệ, đàn nhạc, thơ văn. Đôi khi cũng rất ủy mị, ướt át. T́nh cảm của ông cũng rất dạt dào đối với anh chị em trong gia đ́nh cùng sự kính trọng, hiếu thảo đối với bậc sinh thành và nhất là t́nh yêu quê hương đất nước được thể hiện rất rơ nét trong những vần thơ mộc mạc được viết ra từ đáy tâm hồn thiết tha:

QUÊ TÔI
Thuận Thành đất của Ba
Rạch Kiến quê hương Má
Quê nội quận Cần Đước
Bên ngoại làng Long Ḥa.
Sinh tại miền Gia Định
Việt Nam vạn nẻo đường
V́ sống cuộc đời lính
Tôi có lắm quê hương.
Pleiku xuống Sóc Trăng
An Giang về Vũng Tàu
Nha Trang ra Đà Nẵng
Bến Hải xuôi Cà Mau...
Gia Định đất linh thiêng
Lăng Ông ôi nhiệm màu!
Xa gần đều biết tiếng
Cầu tài lẫn rể, dâu...
Pleiku miền đất đỏ
Thần sống chốn rừng núi
Người Thượng đeo cung, nỏ
Vai mang nặng chiếc gùi
Sóc Trăng thơm ruộng lúa
Những cô gái gốc Miên
Nắng cháy da đen đúa
Đôi mắt thật mơ huyền...
An Giang xứ mắm ruốc
Thánh địa đạo Ḥa Hảo
Câu kinh buồn năo ruột
Thất Sơn huyền bí sao!
Danh lam đất Vũng Tàu
Tuyệt vời ơi Băi Sau
Băi Trước đông du khách
Bể rộng với trời cao
Xứ dân gầy cát trắng
Cô gái miền Nha Trang
Tháp Bà đến cầu Đá
Tóc thề những cô nàng
Vượt qua đèo Hải Vân
Ḷng luống những bâng khuâng!
Thương năo nề Đà Nẵng
Hải cảng của Trung phần
Chia đôi bờ đất nước
Bến Hải thuộc Đế Đô
Xứ Huế ngàn năm trước
Thành Nội lắm nhiều mồ...
Cà Mau là xứ cá
Đỉa nhiều tợ bánh canh!
Muỗi độc ôi nhiều quá!
Cuộc đời thật mỏng manh!
Tŕu mến đất Thần Kinh (Huế)
Sài G̣n sao dễ thương!
Gia Định tôi yêu kính!
Đất Nước là Quê Hương!


(LMH viết vào ngày 25 Tết, Kỷ niệm ngày giỗ Ba. Kính tặng các bà Mẹ vạn nẻo đường con đă gặp)

Trên con đường rong ruổi nghiệp binh đao, ông cũng mang nặng t́nh thương yêu đối với các chiến hữu, những người cùng chí hướng lên đường nối gót chinh nhân. Cuộc đời của những người chấp nhận Đời Lính Chiến với tất cả những vui buồn gian khổ:

CÁNH CHIM TRỜI
Anh, tôi và chúng ta
Thuộc đoàn quân thiện chiến
Sinh tử siết t́nh ta
Chiến thắng cùng chia, thù quyết trả!
Những buổi dừng quân nơi thôn lạ
Anh đứng gác,
Anh vá áo,
Anh ngủ say,
Anh nấu nướng,
Máy thu thanh với tuồng cải lương
... muôn thuở!
Tôi viết thư bên ngọn đèn dầu
... ngàn thương!
Các em bé, quây quần bên đàn anh xa lạ
Khẽ vuốt lên ṇng súng: Anh ơi súng tên ǵ?
Cô em gái, rộn ràng, nhà vui quá
... cảm giác lạ!
Bà mẹ già, thương xót đàn con muôn phương
... “ôi tội nghiệp”!
Tay ngoáy trầu liên miên
Những cánh chim trời, mai về đâu
... nào ai biết?
... lại giết giặc
... lại cơm vắt với x́ dầu
... lại lên đường!

(LHM thân tặng các chiến sĩ vô danh không vụ lợi và để tang cho cố Thiếu tá Nguyễn Văn Nho và những chiến hữu TĐ4/ TQLC đă hi sinh trong trận chiến B́nh Giả cuối tháng 12-1964)

Những lời ấy là tất cả những tâm t́nh của ông trên bước đường hành quân xuôi ngược đó đây. Qua những trận đánh ác liệt và sau những tiếng súng, người lính trẻ lại trở về với những nỗi niềm cô đơn trăn trở trong những phút giây nhớ nhung và trống vắng:

Lạc mẹ chim nức nở
Thổn thức chi ve sầu
Khúc nhạc buồn muôn thuở
Cuộc đời là bể dâu...!
Lá vàng rơi rụng măi
Mưa thu dài lê thê
Kiếp sống đầy ngang trái
T́nh yêu đâu chẳng về...?


Và trong những ngày mùa đông rét mướt ở Washington trong thời gian du học, ông trải rộng niềm thương nhớ đến người mẹ hiền và cô em gái út ở quê nhà:

Hoa Tuyết triền miên phủ núi đồi
Nhẹ nhàng rơi măi rụng không thôi
Những cô gái Mỹ hây đôi má
Tuyết phới qua mi, đậu cánh môi
Ngập lối vài xe không chạy nổi
Trẻ thơ “đấu tuyết” ném liên hồi
Lăo bà run rẩy lê thê bước
Bóng dáng thanh gầy giống Mẹ tôi!


(Tặng em Ánh Tuyết. Ghi một ngày nhớ má 15/1/65. Mùa đông Washington. LHM)
Cuộc sống ông cũng rất chí t́nh gắn bó với bạn bè đồng đội:

Nhớ Soạn, thương Thông, lại mến Tâm*
Dakbla than văn gió th́ thầm
Đêm đông gối súng, sương nhiều quá!
Dế khóc đêm dài... tôi lặng câm!


(LHM. Kontum - Dakbla ngày 14/12/65. Một đêm nhớ Soạn và trước khi đi hành quân. * Thiếu tá Tôn Thất Soạn, Thiếu tá Hoàng Tích Thông và Trung úy Tâm).

Và người thanh niên ấy cũng có những phút giây mơ mộng say đắm về t́nh yêu:

Em là... ly rượu đắng
Đốt cháy con tim này
Em là... hoa tư tưởng
Khiến ḷng anh vấn vương
Em là nàng chim én
Mang mùa xuân nhớ thương...!
Hoặc thương nhớ về những h́nh bóng xa xôi nơi đất lành ông đă đi qua:
Phong Dinh có bến Ninh Kiều
Có ḍng sông đẹp với nhiều giai nhân
Cuộc đời luống những phù vân
Trở về chốn cũ cố nhân xa rồi!
Thân em như cánh hoa trôi
Thương em như cánh chim trời bơ vơ
Yêu em lỡ cả cuộc đời
Nhớ thương chỉ gởi mây trời từ đây...


(Bài thơ “Về Phong Dinh” của LHM đă được nghệ sĩ Hồ Điệp diễn ngâm trong chương tŕnh Thi Văn Tao Đàn năm 1966).

Cuộc đời gian khổ của người lính chiến rày đây mai đó, luôn cận kề bên những sống chết hiểm nguy, làm sao dám nghĩ đến chuyện t́nh yêu và mộng ước mai sau. Nhưng t́nh cảm đó vẫn không thể thiếu trong trái tim người lính trẻ, vẫn có những nỗi niềm u ẩn, vấn vương, mộng mơ và nhung nhớ...

NGƯỜI EM GÁI DAKBLA
Dừng quân nhặt cánh hoa hồng
Nhớ người em gái trên ḍng Dakbla
Xuân sang rồi đến đông tàn
Quan san cách trở đôi đàng ngàn thương
Tôi đi chinh chiến muôn phương
Môi em vẫn mọng vẫn hường ấy chăng?
V́ tôi là lính áo rằn
Ra đi nào biết mấy trăng mới về!
Bởi v́ em quư hoa hồng
Nên trời bắt phải chờ trông
V́ hồng nhiều gai lắm
Hợp rồi vẫn là không
Kontum mấy dặm sơn khê
Lều khuya rét mướt gió về chơi vơi
Nhớ em đếm tiếng sương rơi
Sương bao nhiêu giọt buồn ơi là buồn...


Ngoài sự yêu thích thơ văn, ông c̣n là người rất tài hoa về âm nhạc. Học đàn năm 12 tuổi, ông đánh thành thạo tất cả các loại đàn dây và điêu luyện nhất là Tây Ban Cầm với những nhạc khúc cổ điển Tây Ban Nha. Trong thời gian c̣n đi học, ông thường đệm đàn cho ban nhạc của trường Petrus Kư, ban Khuyến nhạc của Đài phát thanh Pháp Á và ban nhạc Đồng Nai (đàn và hát chung với người anh là Lê Minh Đảo và người em gái kế là Mộng Huyền, một chi tiết nhỏ để nói lên con người hiền lành hiếu thảo của ông là dù mê đánh đàn ca hát tới đâu, xong việc là ông lo sớm về nhà để phụ giúp mẹ việc nhà và săn sóc các em).

Qua hai lần sang Mỹ tu học, ông cũng trau dồi thêm về kiến thức âm nhạc với các danh tài ngoại quốc và đă sáng tác một số ca khúc như: Hoa cài trên súng (1959), Bơ vơ (1960), Người anh chinh chiến (1964), Em là mùa thu (1965), Sao buồn (1966) v.v... Có lẽ, Lê Hằng Minh cũng là người lính duy nhất, dù ở hậu cứ hay bất cứ tuyến đầu trận địa nào, đi đâu cũng mang theo bên ḿnh cây đàn Guitaire yêu quư, hễ có dịp dừng quân hay nghỉ ngơi là ông lại ôm đàn thay cho tay súng, đánh lên những tiếng đàn du dương trầm bổng cùng những ca khúc tuyệt vời cho bạn bè binh lính thưởng thức, tạm quên những gian khổ quân hành, vơi bớt nỗi nhớ nhà, cô đơn. Ông luôn lấy sự hào hiệp, tử tế vui vẻ của ḿnh để đối đăi và cư xử với mọi người chung quanh. Trong chỉ huy, ông nguyên tắc mực thước, sống đời thường lại nhân ái giản dị nên ông được hầu hết các bạn bè chiến hữu dành cho t́nh cảm thương mến tốt đẹp.

Trong bài viết những cảm nghĩ về một vị chỉ huy khả kính của ḿnh (ĐSST), Thiếu tá Lâm Tài Thạnh đă viết đôi ḍng hồi tưởng như sau: Trong những ngày cuối năm 1965 về dưỡng quân tại hậu cứ Thủ Đức (Tam Hà), hôm đó là một buổi chiều thứ bảy, tôi và Quang chẳng biết làm ǵ cho qua “chiều cuối tuần cạn túi” trong pḥng ngủ độc thân v́ cả hai nguyên quán đều ở xa, bà con họ hàng ở Sài G̣n cũng chẳng mấy thân thích gần gũi, c̣n em gái hậu phương th́ cũng chẳng quen biết nhiều với lại điều kiện “đầu tiên” bó buộc. Thôi th́ nằm nhà cho ăn chắc mặc bền. Chúng tôi mang quân dụng ra lau chùi đánh bóng để qua thời giờ giữa buổi trưa quá tĩnh lặng, bỗng nghe vang lên tiếng Tây Ban Cầm réo rắt với bản Panama (Cánh buồm xa xứ) khi th́ như sóng vỗ lúc chẳng khác cơn gió heo may. Tôi nói nhỏ với Quang: “Ông cũng ở nhà như ḿnh”, Quang trả lời: “Ông chưa có lập gia đ́nh” rồi chúng tôi lại tiếp tục công việc c̣n dang dở. Khoảng 30 phút sau, tiếng đàn ngưng hẳn và vào lúc chúng tôi không chuẩn bị để chào kính th́: “Chiều thứ bảy mà không đi bát phố à? Sĩ quan trẻ mà nằm nhà, dở vậy??”. Chúng tôi lúng túng chào tay và cùng trả lời: “Tiền lính tính liền thưa Th/T, với lại chả biết đi đâu”. Ngắn gọn, dứt khoát như khi ban lệnh hành quân: “Mặc quân phục vào, đi với tôi ra hồ tắm “Ngọc Thủy” uống nước giải khát”. Năm phút sau, chúng tôi đă có mặt trên xe do chính Tiểu đoàn trưởng làm tài xế với tôi ngồi kế bên (Quang là khóa đàn em nên cố t́nh nhường tôi ngồi trước với Đại Bàng hoặc v́ e ngại sơ suất khi nói chuyện nên bán cái cho tôi??). Trước khi rời trại, người c̣n nói nhỏ: “Ḿnh đi gần đây khỏi gọi HS Danh (tài xế) làm chi, cho chú ta ở nhà với vợ con”. Trong tự nhiên đối xử như một người anh cả trong gia đ́nh sau khi gọi nước uống cho chúng tôi, NT Minh hỏi thăm về nguyên quán, gia đ́nh, học vấn, quân trường v.v... Từ dè dặt, ngần ngại như lệ thường của bất cứ một Sĩ quan cấp trung đội trưởng nào khi phải trực tiếp tiếp xúc với Đơn vị trưởng ở cấp cao mà thường khi “chạm mặt” th́ chỉ có “Từ chết tới bị thương”, chúng tôi đă vui vẻ trao đổi trả lời các câu hỏi. Dần đà câu chuyện trở nên thân t́nh có tính cách đời thường thực tế và tươi mát hơn. Trước khi ra về, tôi c̣n nhớ rơ: “Các sĩ quan trẻ nhiều năng nổ, chịu khó, kỷ luật, ham học hỏi là xương sống và ch́a khóa thành công của đơn vị. Các em cố gắng nhé, thôi ḿnh về”. Lời nói chân t́nh, tha thiết có giá trị động viên cao của cố Niên trưởng Lê Hằng Minh đă làm cho tôi và Quang thực sự xúc động và cảm mến vị chỉ huy đầy đức độ, nghiêm nhưng không “quan liêu”, oai nhưng không “khắc nghiệt”. Gần 10 năm sau có lần tôi đă lặp lại câu nói đó của người cùng toàn thể Sĩ quan TĐ 9 trong ngày tôi nhận chức vụ TĐT.

Nơi hậu cứ Thủ Đức - Tam Hà là nơi Tiểu Đoàn 2/ TQLC thường về đây dưỡng quân, sau này c̣n được gọi là hậu cứ Lê Hằng Minh sau năm 1966.

Trở lại với người chiến sĩ Lê Hằng Minh, khi chiến trường miền Trung càng lúc càng sôi động th́ Tiểu đoàn 2/ TQLC cùng những đơn vị bạn càng đi sâu vào những gian lao chiến đấu với tất cả mọi căng thẳng hiểm nguy ŕnh rập từng phút từng giây. Từ đầu mùa hè năm 1966, họ phải điều động và tham dự nhiều trận hành quân liên tiếp suốt ba tháng không ngày về thăm nhà, nghỉ phép. Đánh B́nh Định, Quế Sơn vừa xong, lại bay vào Quảng Ngăi, rồi về Đà Nẵng, Huế...

Ngày Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa được chính thức thành lập và công bố là ngày 19 tháng 6 năm 1966. Để tưởng thưởng những phần tử ưu tú có công trong sứ mạng diệt Cộng tại tiền tuyến, một số cấp chỉ huy đơn vị chiến đấu được thăng cấp đặc cách tại mặt trận vào ngày lễ trọng đại này, trong đó có thiếu tá Lê Hằng Minh. Vừa được thăng cấp Trung tá vào ngày 19/6/66, Lê Hằng Minh đă cùng Tiểu đoàn 2 và một số đơn vị tác chiến khác lại lao vào mặt trận Lam Sơn 283 ở Gia Đặng - Phù Lưu (21/6 đến 23/6), tiếp thêm những trận thắng vẻ vang với sự chiến đấu rất gan ĺ dũng cảm của họ. Trong một bài phóng sự, kư giả Dzoăn B́nh đă viết về chuyến gặp gỡ bất ngờ với Tr/T LHM như sau: “Chúng tôi ghi vào sổ tay và tự nhủ sẽ khai thác về cái chết oai hùng của Thiếu úy Bằng, Đại đội 3 thuộc TĐ Trâu Điên. Hỏi về sự anh dũng của đại úy Sứ, tung hoành đè bẹp VC bằng đoàn Cọp Bay M-113. Và ḷng tự nhủ sẽ phải “vớ” được con người chỉ huy Trâu Điên mà khi nói về cá nhân xuất sắc, phần đông đă khuyên chúng tôi nên đi t́m hai ông Trung tá Lê Hằng Minh và Tôn Thất Soạn. Họ nói: “Hai ông này mới có 31 tuổi nhưng đánh đấm ĺ lợm “ch́” lắm. Cả hai đều là Cọp Biển. Trận Phù Lưu - Gia Đặng, cả hai đều đứng khơi khơi đánh xung phong như đi biểu diễn”. Thế rồi, chiều 24/6/66, Huế... buồn xa vắng, mưa lất phất... như trời khóc sụt sùi. Chúng tôi đi “lô ca chân” tạt vào văn pḥng triển lăm ngó anh em đang bầy biện SKZ và súng Nga vừa thu được. Th́nh ĺnh, chúng tôi đụng đầu với hai ông quan Cọp Biển. Nh́n vào ngực thấy cái lon bạc trắng, chẳng rơ là cấp ǵ. Ngó lên nón “bê rê” thấy hai cái bông bạc: cấp Trung tá.
- Ủa! Sao hai ông Trung tá này trẻ quá. Nếu phỏng đoán bạo lắm cũng chỉ nghĩ họ tới 26 tuổi là cùng.
Dù Trung tá Minh để râu mép, nhưng nét mặt tràn đầy nhựa sống, hồn nhiên yêu đời của họ đă giúp chúng tôi mạnh dạn làm quen. Sau màn tự giới thiệu, chúng tôi cùng bước vào một quán nước bên đường tṛ chuyện. Trung tá Soạn giơ tay giới thiệu: “Đây, kể về trận đánh ác liệt tại Phù Lưu, tôi xin nhường lời lại cho Tr/T Minh”. Cho đến phút này, con người mang tên Minh mới bắt đầu lên tiếng. Ông cao giỏi lắm là một thước 55, nặng lối 47 kư là tối đa. Khuôn mặt nhỏ nhắn, mắt hơi ốc nhồi, miệng cười rất có duyên, nhờ điểm thêm bộ râu mép đă làm tăng thêm vẻ “bô trai” của Tr/T họ Lê. Nh́n ông có thể nhận ra ngay qua h́nh ảnh của người anh ruột là Thiếu tá Lê Minh Đảo ở pḥng 3 của QĐ 4. Hai anh em Minh giống nhau như khuôn đúc.
Chúng tôi hỏi: “Tại sao lại đặt tên là Trâu Điên?”.
“V́ tụi tôi hăng và xung phong đánh Cộng như Trâu Điên, chỉ biết húc tới. Có thể nói chưa hề “thất” trận nào. Tiểu đoàn 2 TQLC được kể là đơn vị nổi nhất và đứng đầu sổ về công trạng”.

Ngừng một lát, ông kể tiếp: “Kỳ này mệt chớ phở, mới đi đánh nhau sơ sơ gần 3 tháng chưa về Sài G̣n. Khi hành quân “cú” Lam Sơn 283, tiểu đoàn Trâu Điên mệt - hết muốn đi - v́ vác nặng gần trọn ngày. Thế mà tới 5 giờ chiều, khi gần tới đầu làng Gia Đặng, đơn vị tôi đă bị dồn cục v́ mới vượt qua cái cầu. Anh em xúm sát gần nhau. Tôi vội lướt lên hàng đầu để ra lệnh cho họ trở về theo cự ly đă định người này cách người nọ 10 thước. Đi xúm xít bị nó “đớp” th́ chết cả đám. Ấy thế rồi, tôi vừa lướt lên đầu th́... thoáng bắt gặp phía trước cách lối 10 thước, 3 cái đầu vội thụp xuống. Linh cảm rất bén nhạy, tôi ra dấu cho toán quân tiên phong nằm ngay xuống, bố trí về phía có địch vừa phát hiện. Tôi cho nổ một loạt đạn trung liên vào cái hố có 3 VC, một tên có thượng liên, hai tên có tiểu liên AK50. Th́ ra chúng là tổ viễn tiêu. Nếu không kịp phát giác th́ tụi tôi đă lọt vào ổ quỉ. Bắn loạt đầu, VC trả lời như pháo Tết, may mà chiến sĩ Trâu Điên đă nắm chiếm ưu thế và ở ngoài tuyến bố trí của địch. Suốt ngày đi “lô ca chân” mệt mỏi phờ người, thế mà gặp địch, lính lại ḥ hét xung phong như trâu điên và tất cả quên đói, đánh địch suốt từ năm giờ chiều cho đến chín giờ tối. Bọn chúng rút khỏi trận địa để lại hơn bảy mươi xác chết. Tiểu đoàn Trâu Điên lại được lệnh quay về mục tiêu Phù Lưu, cách Gia Đặng 10 cây số. V́ tiểu đoàn 808 VC đêm trước đă từ Gia Đặng luồn một lèo “lĩnh” về Phù Lưu. Không thể tưởng tượng được, liền ba đêm ba ngày đi liên miên. Đánh nhau tơi bời tới 21-6-66, suốt đêm đó mắt thao láo nằm vây địch, thế mà sáng hôm 22-6 lại “tỉnh bơ” đi đuổi địch về Phù Lưu, lại xung phong đánh chiếm từng hầm, diệt từng hố, phải băng suối đánh xáp lá cà với VC suốt từ 4 giờ chiều đến 2 giờ đêm mới khóa tắt họng súng địch...”.
Sau khi kể những chi tiết hấp dẫn về trận đánh, Tr/T Minh nhún vai nói tiếp: Từ nay đến 30/6, cậu chịu khó ra Huế, chúng tôi sẽ mời cậu đi theo hành quân ngay từ lúc mới mở màn, có thế mới viết kỹ và sống động hơn là đánh đấm xong từ khuya rồi mới ḷ ḍ ra viết theo kiểu “nghe đồn rằng...”. Tr/T Minh hẹn sẽ khao chúng tôi một chầu khi tái ngộ tại Thanh Thế khi về tới Sài G̣n. Chúng tôi chia tay hai ông Tá và về Sài G̣n viết loạt bài phóng sự, đặc biệt viết thêm chuyện về Lê Hằng Minh trên Nhật báo Sống. Chúng tôi chân thành viết v́ yêu mến người chiến sĩ Cọp Biển, đánh giặc hay như chơi đàn. Ra trận đánh nhau bằng súng đạn, xong rồi lại... thản nhiên gảy đàn vui nhộn trước ba quân. Dù đă 31 cái xuân xanh mà... Trung Tá Minh vẫn cô độc. Ông vui với đời Cọp Biển và chịu ế vợ có lẽ v́... tự linh cảm thấy ngày mai... của đời chiến sĩ, thuộc đơn vị đă lẫy lừng danh tiếng về tài xung phong diệt địch... 'Bài phóng sự chiến trường của Dzoăn B́nh”.

Từ trận chiến thắng Lam Sơn vang dội này, báo chí từ Sài G̣n bay ra mặt trận quan sát và phỏng vấn Tr/Tá Lê Hằng Minh. Buổi lễ chiến thắng được tổ chức trọng thể tại Huế. Ṿng hoa chiến thắng và huy chương lại một lần nữa ngập trên vai người anh hùng mũ xanh, chỉ huy tiểu đoàn Trâu Điên.

Từ Huế, những cánh quân chia ra để xuôi Nam ngược Bắc. TĐ1 (Th/T Phan Văn Thắng) theo Chiến đoàn B (Tr/T Tôn Thất Soạn) di chuyển vào Quảng Ngăi. TĐ2 ở lại An Ḥa (phía Bắc thành phố Huế) để nhận tăng phái cho SĐ1/ BB với đoàn quân xa GMC nằm chờ từ chiều ngày 28/6/66 để chuẩn bị di chuyển vào sáng sớm hôm sau.

Sau đây xin được trích phần tường thuật ngắn của vị Đại úy cố vấn thuộc TĐ2/ TQLC là Thomas E. Campbell về những diễn biến của trận đánh: 27 xe GMC, khởi hành từ An Ḥa lúc 7 giờ 30 sáng ngày 29/6 với 573 TQLC. Khi đoàn xe cách Huế khoảng 30 cây số và c̣n 20 cây số th́ đến Quảng Trị theo Quốc lộ số 1, lúc này vào khoảng 8 giờ 30 sáng, di chuyển với tốc độ khoảng 30 - 35 KPH. Hai xe bị bắn bởi đạn 75 ly và bị cháy phải tấp vào lề đường, từ đồi ở phía Tây bắn ra với khoảng cách 400 mét. Đoàn xe phải ngừng lại, Trung tá Minh ra lệnh cho Bộ chỉ huy/ TĐ di chuyển đến gần đường xe lửa cách lộ khoảng 60 - 75 mét. Việt Cộng từ đường rầy bắn ra rất mạnh. Sau một lúc giao chiến, ông Minh bị thương bởi hai viên đạn trúng ngực. Tôi thấy ông bị thương nặng. Một quả lựu đạn nổ làm tôi bị thương vào tay, cổ nhưng nhẹ. Khi tôi trở lại chỗ Trung tá Minh th́ thấy ông đă chết, có lẽ v́ trúng miểng lựu đạn vào đầu”.
Tiếp theo xin được trích lại bài viết của kư giả Dzoăn B́nh đăng trên Nhật báo Sống về “Trận phản kích tuyệt vời cuối cùng của Trung tá Lê Hằng Minh” sau đây:
“Theo đúng lời hẹn, chúng tôi ra Huế đúng ngày 29/6/66. Đến Phú Bài lúc 15 giờ chiều, gặp loáng thoáng một đoàn quân nhạc có sĩ quan Cọp Biển đứng chỉ huy. Bên cạnh, có chiếc phi cơ ở phía sau, chúng tôi thấy một quan tài phủ Quốc kỳ. Cũng như lần trước, khi xuống sân bay, chúng tôi cũng gặp cảnh tương tự. V́ thế, ḷng chỉ thấy buồn lâng lâng... tay cầm tờ báo Sống, bụng nóng ruột mong téléphone gọi Tr/T Minh để khoe bài báo viết về khí phách của Trâu Điên và Tiểu đoàn trưởng Trâu Điên. Nhưng... chúng tôi giật ḿnh khi có tiếng la của một Trung sĩ ra lệnh:
- Này, trung đội 2 sửa soạn chào quan tài Trung Tá.
Các tiếng x́ xào tự nhiên lọt vào tai tôi:
- Tiểu đoàn Trâu Điên vừa đánh bại trận phục kích kinh khủng của VC ở quốc lộ 1.
Chúng tôi lật đật vớ lấy người nói câu này rồi hỏi hấp tấp:
- Có ai chết không?
- Có, Trung tá Tiểu đoàn trưởng chết rồi!
- Có phải Trung tá Minh không?
Không đợi trả lời, chúng tôi chạy như bay ra phía có chiếc quan tài và... quả đă rơ ràng - đúng là vị trí cuối cùng của Trung tá Lê Hằng Minh. Dường như... chúng tôi có chảy nước mắt trong phút giây đó. Cái sự khóc xảy ra thật kỳ dị. Tôi không có ư thức về cái khóc bất thần này. Nhưng... đó là điều ở trong đáy ḷng tôi. Cảm thấy bồn chồn, tự nhiên tôi thấy tất cả đều phi lư và trong giây phút như mê ấy, tôi vẫn chưa định thần để nhớ cho kỹ lại, liệu ḿnh đang làm ǵ? đang ở đâu? và có chuyện chi đang xảy tới. Cảm giác nghẹn ngào xâm chiếm và đè nặng trĩu. Tôi bùi ngùi nói bâng quơ như khấn vái: “Trung tá Minh ơi! Tôi viết bài đề cao tiểu đoàn Trâu Điên và viết về Trung tá đây này”. Tôi trịnh trọng trải tờ báo lên nắp quan tài và lấy cái nón bê rê xanh đè chặn lên cho gió khỏi bay. Tôi tưởng như Lê Hằng Minh đang tủm tỉm cười với tôi, một nụ cười ma quái xuyên qua nắp chiếc áo quan... vô lư ấy.
Ḷng không định mà tôi đột nhiên đứng nghiêm rất thẳng người để chào anh lần cuối, nước mắt lại ứa ra. Tôi khấn vái lần nữa: “Anh Minh hăy phù hộ cho tôi có nhiều cơ hội đi với các bạn đồng đội của anh, để viết thật nhiều, viết thật đều, để cho triệu người ở phần đất này thông cảm được sự gian khổ của những người lính chiến hôm qua c̣n đây, hôm nay đă ra người thiên cổ. Có trông thấy cảnh này mới thương đến người chiến binh”.

Tôi cố tưởng tượng và h́nh dung lại con người anh rồi đột ngột hỏi thăm một Tr/Úy Cọp Biển đứng gác quan tài rằng: “Trung Tá bị... vào đâu?”. Chẳng hiểu tôi là cái “thống chế” ǵ mà hỏi dồn dập và hơi có vẻ “vô lễ” như vậy, người sĩ quan lắc đầu đáp giọng bùi ngùi: “Ông bị hai phát vào ngực. Tụi nó c̣n quất thêm một tạc đạn, miểng tạc đạn phá bể sọ”. Tôi rùng ḿnh liên tưởng đến phút giao tranh ác liệt, Tr/Tá Lê Hằng Minh tả xung hữu đột giữa đám cuồng tín như thú dữ. Ông đă bắn đến viên đạn chót và đă gục ngă anh dũng như tất cả các chiến sĩ Cọp Biển từng hi sinh tô thắm cho lá cờ binh chủng, ngày thêm nổi bật truyền thống oai hùng của đoàn quân Cọp Biển”.

Nói Về Một Người Chết là những cảm xúc của nghệ sĩ Tô Kiều Ngân trong bài tạp ghi đăng trên báo năm 1966: “Đêm văn nghệ đă tàn, anh em TQLC dừng quân tại Kontum tỏ ra hả hê, thoải mái với một chương tŕnh ca vũ hào hứng. Trong ánh sáng mờ mờ, chen giữa những tiếng nhạc dặt d́u, bỗng xuất hiện một người: mắt to, tóc ngắn, quần áo cọp biển, chiếc lon Thiếu tá gắn nơi ngực, bộ râu mép rất xanh, ông ta tới gần ban nhạc, cầm lấy cây lục huyền cầm. H́nh ảnh đó chẳng có ǵ đẹp, v́ dáng dấp, quần áo của con người đó đi kèm với chiếc đàn lục huyền quả thật là một cuộc hôn phối không cân xứng. Nhưng tôi giật ḿnh, trước mắt tôi bỗng hiện ra một chân trời chói chang nắng vàng, rồi tiếng hát của bọn du mục giang hồ, những trái cam mọng đỏ, gió của sa mạc, rồi những cuộc đấu ḅ rừng, tiếng castagnettes reo đều trong tay cô gái Tây Ban Nha quay đều lả lướt.

Mọi người đều ngồi im, hướng về người chiến sĩ đang đàn kia. Đầu anh hơi cúi thấp, đôi mắt anh ban năy to và sáng, bây giờ bỗng trở nên dịu hiền. Anh như không chú ư đến mọi người, năm ngón tay lướt trên cần đàn, năm ngón kia búng vào sáu dây gợi lên những tiếng sóng vỗ, mưa sa.

Thật là “thế gian bất hiểu tài hoa khách”. Đất Kontum giá lạnh, heo hút này đă mang đến cho tôi một bất ngờ. Sau đêm đó, tôi biết anh ta là Hằng Minh, Thiếu tá Lê Hằng Minh, Chiến đoàn phó Chiến đoàn A/ TQLC.

Trở về Sài G̣n, tôi gửi sách lên tặng Minh, Minh viết thư về cho tôi nói rằng rất nhớ “tiếng sáo ru hồn” và Minh gởi cho tôi mấy bản nhạc để tŕnh bày ở Đài Phát Thanh. Yêu cầu đó đă được đáp ứng. Một chiều hành quân nào đó, Minh đă được nghe vọng ra tiền tuyến tiếng hát của Mai Hương tŕnh bày bài nhạc của anh.

Ít lâu sau, tôi được tin Minh đi đánh giặc ở Bồng Sơn, Phú Yên rồi mới đây, tôi gặp Minh ở Đà Nẵng trong những ngày khó khăn nhất của t́nh h́nh đất nước. Vẫn mớ tóc ngắn, đôi mắt to, bộ râu mép xanh ŕ, nụ cười hiền hậu. Th́ ra Cọp biển bơi hoài, nay Kontum, mai Bồng Sơn, ngày kia đă dạt ra Đà Nẵng. Gặp nhau ngắn ngủi, chia tay không kịp hẹn ḥ th́ hôm qua đây, Huy Phương đột ngột báo tin cho tôi:

- Anh ơi! Ông Hằng Minh chết rồi.

Tôi sửng sốt, người lặng đi, gai ốc nổi cùng ḿnh. Hằng Minh chết rồi ư? Tôi sững sờ như chưa khi nào nghe tin có người chết mà sững sờ như thế, kể cả lúc tôi nghe tin hai bà má tôi kế tiếp nhau qua đời trong ṿng một tháng. Bà mẹ tôi như lá vàng, Hằng Minh là chiếc lá đương xanh.

Buổi chiều ngồi trong quán nước đường Lê Lợi, hai người bạn nói chuyện với nhau về lẽ sống chết ở đời. Có những người bạn vừa cụng ly với ta chiều nay, sáng mai lại đă vĩnh viễn nằm yên, giă từ tất cả. Chuyện đó bây giờ xảy ra như cơm bữa.

Tôi chợt nhớ tới Hằng Minh, người chiến sĩ vừa đánh giặc vừa đánh đàn. Lê Hằng Minh là chiến sĩ, chiến sĩ th́ sống chết là chuyện thường nhưng giá Hằng Minh đừng có ngón đàn tuyệt diệu, đừng có một tâm hồn tràn đầy yêu thương th́ khi nghe tin anh chết, sự ngậm ngùi cũng không đến nỗi nhiều như thế!”.

Sau ngày cố Tr/T Lê Hằng Minh tử trận, Tổng cục chiến tranh chính trị có cho phát thanh một số chương tŕnh “Thơ và nhạc Lê Hằng Minh”, trích từ những bài thơ và nhạc phẩm do ông sáng tác về t́nh yêu, t́nh bạn và đời quân ngũ trên làn sóng Đài phát thanh Quân đội ở Sài G̣n để tưởng niệm đến một anh hùng mũ xanh đă nằm xuống v́ Tổ quốc và dân tộc Việt Nam.

Dẫu cũng là người trai trong thời ly loạn, đă là chiến sĩ cầm súng giữ biên cương, tất cả đều xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, sẵn sàng chấp nhận tử sinh bất cứ giờ phút nào xảy đến với ḿnh nhưng Thiếu tá Lê Minh Đảo lúc ấy không thể nào ngăn được ḷng xót đau khôn cùng trước sự ra đi vĩnh viễn của người em trai thân yêu. Ông đă khóc bằng những giọt lệ đau ḷng khi viết nên những ḍng chữ hết mực thương yêu:

Minh,

Anh ghi lại cuộc đời em trong khi em đă nằm yên nghỉ dưới ḷng đất nước Việt Nam thân yêu, điêu linh và tang tóc này.

“V́ quốc vong thân”, em để lại cho quốc gia này bao nuối tiếc, cho thế hệ 1966 một gương sáng soi chung cùng với một sự thiệt tḥi to tát. Quân lực VNCH mất đi một chiến hữu oai hùng, một cán bộ chỉ huy ưu tú, lỗi lạc và gan ĺ... Văn nghệ Việt Nam mất đi một nhân tài có ngón đàn tuyệt diệu, một thi nhân với những ḍng thơ đa cảm tràn đầy yêu thương.

Gia đ́nh chúng ta, lúc em c̣n sống, t́nh thương của em, em ban hết cho tất cả mọi người, sự hi sinh của em vô bờ bến. Cho nên, mất em, gia đ́nh mất tất cả, những người c̣n ở lại không c̣n đủ nghị lực để tin tưởng vào ngày mai. Riêng anh, sự mất mát thật quá ư lớn lao và tàn nhẫn. Anh mất một đứa em hiền ḥa, hiếu thảo, một chiến hữu anh hùng tài ba, một “Bá Nha của Tử Kỳ”, một người tri kỷ... Thật vậy, không ai hiểu anh bằng em, cũng như không ai biết rơ em bằng anh.

Em giă từ thế gian giữa tuổi “hoa niên” đầy mộng mơ, huy hoàng. Bao nhiêu người hướng về em, tin tưởng ở tương lai rực rỡ của em. Thế mà đành phải khóc em, khóc cho con người tài hoa bạc số!

Em như một v́ sao. Sáng quá! Rực rỡ quá! Ánh sáng làm lóa mắt mọi người. Tất cả đều hướng nh́n em đang vượt thẳng tít lên cao và tan biến trong vũ trụ bao la để cho mọi người phải bàng hoàng, ngẩn ngơ, tiếc rẻ. Em đă tự tạo cho em một sự nghiệp vĩ đại làm hănh diện cho gia đ́nh, cho gia tộc họ Lê. Những đời sau này chưa chắc ǵ con cháu chúng ta sẽ làm được như em.

Hầu hết nhân vật trọng yếu của Quốc Gia mến tiếc em, phúng điếu và đưa linh cữu em đến nơi an nghỉ cuối cùng. Báo chí ngoại quốc và Việt Nam ca tụng em, dành cho em những hàng Tít lớn. Đài Phát thanh dành những chương tŕnh đặc biệt ca ngợi và thương tiếc người chiến sĩ anh hùng, người nghệ sĩ tài hoa. Nhưng anh nghĩ rằng: “Nói đến Lê Hằng Minh mà chỉ nói đến phương diện ái quốc và nghệ thuật không chưa đủ. Lê Hằng Minh c̣n có nhiều đức tính cao quư khác. Cuộc sống nội tâm của Hằng Minh chứa đầy những u ẩn, dồn ép của một con người đa sầu đa cảm, quảng đại và vị tha, đem t́nh thương của ḿnh ban cho tất cả mọi người...”.

Đó là những lời xúc cảm với muôn vàn đau đớn tiếc thương của Th/Tá Lê Minh Đảo khi ông chợt nghe tin em trai ḿnh vừa anh dũng hi sinh.

Và trên những tờ nhật báo Sống, Tiền tuyến... với những tin tức đang sôi bỏng ngoài chiến trường trong thời điểm đó, đă ghi lại bài phóng sự tường thuật: Trận phục kích Thần Sầu Quỷ Khốc của T.Đ. Trâu Điên như sau:

“Chúng tôi đến thăm trận địa giữa lúc xác địch máu đỏ c̣n bốc hơi, nằm ngổn ngang dọc đường rầy xe lửa, lẫn bên tử thi của các chiến sĩ Cọp Biển thuộc T.Đ. Trâu Điên gục ngă kế bên thân địch, điều đó chứng tỏ quân ta đă đánh cận chiến với quân xung phong của VC cho tới phút thở hơi cuối cùng.

Nh́n chung quanh là những dăy đồi trọc chập chùng bát ngát chạy dài tới vùng Cận Sơn. Địch chém vè tẩu thoát về phía núi nhưng binh lực TQLC Mỹ, Thiết giáp và các thiên thần mũ đỏ thuộc Tiểu đoàn 5 Nhảy dù đă được trực thăng vận cấp kỳ nhảy xuống trận địa và tiến sâu vào ḷng núi để chận đường rút của địch.

VC phục kích hai mặt dồn ta lọt vào tầm súng địch.

Pḥng tuyến bố trí của VC dài 3 cây số. Nơi được chọn làm chiến trường nằm gần ranh giới Quảng Trị - Thừa Thiên, cách Huế 34 cây số. Địch nằm ôm lấy con đường số 1. Chúng phục cả hai bên đường. Bên tay mặt, chúng ẩn nấp sau bụi rậm, bố trí SKZ và súng thượng liên khai hỏa bắn ngay vào quân xa gồm 27 chiếc chuyên chở toàn bộ T.Đ. Trâu Điên xuất phát từ Huế khoảng 7 giờ sáng 29/6/66.

Tiểu đoàn này có nhiệm vụ ra Đông Hà dự cuộc hành quân hỗn hợp với Đồng Minh (T.Đ. này cũng vừa tạo thành chiến tích Phù Lưu đè bẹp T.Đ. 808 VC). Khi súng địch nổ bùng, các chiến sĩ Trâu Điên phản ứng tự nhiên bằng cách nhảy khỏi xe, tràn qua tay trái băng qua đồng trống lối vài chục thước để chiếm lănh cao địa VC là dăy đường rầy xe lửa.

Nhưng địch đă nằm đầy nhóc tại phía này và quân ta đă chạy thẳng vào đúng tầm súng của quân xung phong VC. Trong trường hợp thất thế này chỉ một phút lúng túng là toàn T.Đ. sẽ tan ră trong nháy mắt. Khi mà SKZ nổ từng loạt bắn cháy ngay trong 5 phút đầu 14 xe ngút lửa, khi mà phía địch quét ra hàng loạt thượng liên bắn như mưa rào. Chạy qua phía trái th́ đụng vào lưới lửa tập trung hỏa lực của địch đă nắm ưu thế địa h́nh chọn lựa từ trước. Nhưng Tr/T Lê Hằng Minh, tiểu đoàn trưởng T.Đ. Trâu Điên đă tỉnh táo nhận rơ lối mai phục của địch bố trí cả 2 bên đường. Như vậy tầm súng của địch phía đường rầy có thể bắn vào đồng chí của chúng phía bên kia mặt đường sau bụi rậm. Quả đă rơ ràng là VC chỉ bắn thật sự khoảng 5 phút mở màn trận đánh và khi ta nhào qua phía đường rầy xe lửa, th́ bọn VC bên này chỉ bắn với mục đích dùng tiếng nổ uy hiếp tinh thần quân ta, xua quân ta chạy về phía bố trí hỏa lực chính của địch. Nhận định tổng quát toàn bộ chiến trường với phản ứng chớp nhoáng, Tr/T Lê Hằng Minh ra lệnh cho Đại úy tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Hay mang toán quân thoát hiểm sau đợt SKZ phủ đầu dồn toàn lực băng qua đường vượt qua đám lửa khét lẹt mùi xăng và thịt người chết cháy, để xung phong đánh thốc vào pḥng tuyến của VC nằm phía bụi rậm. Nếu VC thật sự bắn theo đường bắn thẳng th́ chúng sẽ quạt vào quân của chúng đang rời khỏi đường rầy xe lửa để xông vào đánh cận chiến với các chiến sĩ Cọp Biển từ trên đoàn xe bốc cháy nhảy xuống xáp chiến giữa làn sóng biển người của đối phương.

Bên cạnh Tr/T Lê Hằng Minh c̣n có một trung đội cảm tử có nhiệm vụ bảo vệ cho Ban Chỉ huy TĐ, nhưng các chiến sĩ cảm tử này đă bị hàng trăm quyết tử VC cố ư nhắm vào bộ phận đầu năo của ta để lao vào tiêu diệt dù phải đổi giá đắt. Trung Tá Lê Hằng Minh, người chiến sĩ Cọp Biển, anh cả của TĐ2/ TQLC với 31 tuổi xuân tràn đầy nhựa sống ấy đă oanh liệt gục ngă sau khi điều động toàn tiểu đoàn lật ngược thế cờ phản kích địch và giật lại thế chủ động chiến trường.

Để giúp bạn đọc có một khái niệm tổng quát về trận phản kích của VC trên quốc lộ 1 ngày 29/6/66, chúng tôi xin lược thuật vài nét chính như sau:

Lực lượng VC gồm có Tiểu đoàn chính quy 800 được tăng cường thêm Đ.Đ. Pḥng không C-15 gồm súng nặng 12 ly 7 và đại liên 50 có bánh xe, tăng cường thêm Đ.Đ. C-16 gồm súng cối 82 ly, SKZ 57 ly và 2 cây đại bác 75 ly. Đơn vị này nhắm đánh xe tăng và yểm trợ cho quân xung phong khi tiến cũng như lúc giải quyết chiến trường. Tăng cường thêm Đ.Đ. C-13 gồm bộ phận truyền tin, điện thoại... Quân số VC tham dự trận phục kích gồm 700 người cộng thêm quân du kích địa phương thuộc đơn vị H99 trang bị các vơ khí như carbin garant M1 FM 24x29 v.v... Trận phục kích vận động chiến của VC áp dụng theo kế hoạch chặt đứt đầu (Đ.Đ.1 của Đại úy Trần Kim Hoàng & Đ.Đ.3 của Trung úy Đinh Xuân Lăm), cắt làm đôi, rồi khóa chặt đuôi (Đ.Đ.2 của Đại úy Nguyễn Văn Hay & Đ.Đ.4 của Đại úy Nguyễn Xuân Phúc) để tiêu diệt bộ phận giữa (Bộ Chỉ huy & Tiểu đoàn trưởng TĐ2).

Trận phục kích này, TĐ. Trâu Điên đă phản phục kích thật dữ dội kinh hoàng. Đánh hết sức ḿnh nhưng sức người có hạn, Tr/T Lê Hằng Minh cùng một số chiến sĩ anh dũng khác như Chuẩn úy Cầu v.v... đă gục ngă sau khi chọc thủng pḥng tuyến địch và kịp điều động các chiến sĩ Cọp Biển c̣n sống sót tập trung binh hỏa lực đánh thốc ngược trở lại pḥng tuyến thứ hai của VC. Chắc chắn là cho tới giờ nhắm mắt, Tr/T Minh cũng c̣n đủ trí minh mẫn để... chết trong niềm hănh diện v́ thế chiến thắng đă lật ngược được ngay sau 15 phút giao tranh và Tr/T Lê Hằng Minh đă oanh liệt đền nợ nước vào phút thứ 30.

Chính v́ phản ứng mau lẹ, nhận định tổng quát trận địa và nắm được ư của địch, nên trận phục kích mà VC đă công phu mai phục từ 2 giờ sáng với quân số đông đảo, hỏa lực hùng hậu, chúng tin chắc chỉ sau 10 phút phát hỏa là hơn 400 chiến sĩ Cọp Biển sẽ rơi vào lưới lửa của VC. Kết quả sẽ là phân nửa bị hạ ngay đợt súng đầu tiên và một phân nửa bị lùa đi v́ lọt vào giữa “tổ ong” trùng điệp ngập quân thù và... đơn vị tiếp ứng nếu kịp lên tới trận địa th́ nhiệm vụ của họ là đi lượm xác đồng đội và lo dập tắt đám cháy của đoàn GMC trúng SKZ 57 ly.

Nhưng kết quả trái lại. Đại tá Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn 1, đă phải nói thành thật rằng trong đời binh nghiệp của ông, kể cả hồi Pháp, chưa hề thấy trận phục kích nào lại biến thành trận phản kích tuyệt vời như trận đánh trên cây số 34, tại quốc lộ 1 ngày 29/6/66 vừa qua.

Dù đă bị thất thế, trong lúc VC mai phục ở vị trí do chính địch chọn lựa. Quân ta ngồi trên xe, SKZ bắn loạt mở đầu bên ta đă bị trúng đạn 14 xe. Tuy vậy, ai gục th́... đành chịu, c̣n lại tỉnh táo dựa lưng vào nhau tác chiến ngay...”

(Trích ghi từ phần phóng sự chiến trường)

V́ thế với sự phục kích đại quy mô, lực lượng hùng hậu là một Trung đoàn VC với sự chủ động chọn lựa địa h́nh mọi ưu thế nắm chắc cùng khẩu hiệu “phải chuẩn bị thật chắc ăn mới đánh” không ngờ gặp sự xung phong chiến đấu dũng mănh của các chiến sĩ Trâu Điên TĐ2/ TQLC cùng sự tài t́nh đảm lược của vị Tiểu đoàn trưởng khét tiếng đă biến thành trận phản kích lẫy lừng lần thứ nhất tạo thành trên chiến địa Việt Nam.

Khi TĐT Lê Hằng Minh vừa gục ngă cũng là lúc bại quân VC đang cố t́m đường tháo chạy về hướng núi Hồ Bơi, Cánh Giơi v.v... Nhưng Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đă kịp thời bám sát truy lùng, chận đường tẩu thoát của địch. Giữa lúc trận đánh đang tiếp diễn các cánh quân của Nhảy Dù, Trung đoàn 3, Thiết quân vận M 113, Thủy quân lục chiến Mỹ đang rượt địch th́ tướng Walt, Tư lệnh Cọp Biển Hoa Kỳ đă ngồi trực thăng đi quan sát chiến trường. Mặt khác tướng Hoàng Xuân Lăm, Tư lệnh Quân đoàn I cũng cùng với Đại tá Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn I ngồi trực thăng theo sát trận địa. Tướng Walt từ trên nh́n xuống ở ven sông thấy có hai xác VC nằm chết gục bên cây đại bác 75 ly khổng lồ, Tướng Walt thận trọng cho gọi một đơn vị Cọp Biển, có thêm đoàn quân khuyển trực thăng vận xuống bao quanh khu vực này. Sau đó chính tướng Walt đă hạ cánh xuống nơi có cây đại bác 75 và tịch thu mang về Bộ Chỉ huy.

Chỉ trong ṿng một tuần lễ với ba chiến thắng Lam Sơn 283 (Phù Lưu - Gia Đặng); 284 truy kích tiểu đoàn 808 VC và 285 là trận phản phục kích thần sầu của Tiểu đoàn Trâu Điên tại mặt trận miền Trung đă vang dội khắp các chiến trường. Để viết nên những trang sử xanh này, Trung tá Lê Hằng Minh cùng một số các chiến sĩ oai hùng khác... đă vĩnh viễn ra đi từ chốn Tử Sinh!

Đến đây, tôi cố h́nh dung ra buổi sáng kinh hoàng và đầy máu lệ hôm ấy. Một buổi sáng mai c̣n tươi đẹp ánh nắng vàng rực rỡ. Trên con đường quốc lộ số 1 chạy dài từ Huế ra đến Quảng Trị - Đông Hà, khói lửa đă bùng lên nơi đoạn đường Cầu Pḥ Trạch, Phong Điền - Thừa Thiên trên cây số 34. Trận chiến diễn ra thật khốc liệt chỉ hơn nửa tiếng thời gian nhưng đă lấy đi bao mạng sống con người và gây ra bao cảnh tang thương, từng ngày từng giờ trên quê hương điêu linh khốn khổ Việt Nam. Đă bao nhiêu chiến sĩ anh hùng đă nằm xuống như những người vừa ngă xuống nơi đây. Ḍng máu thanh xuân của họ đă chảy thắm trên mảnh đất cằn khô quê mẹ cho mạch sống tương lai được thêm phần tốt tươi. Những giờ phút kinh hoàng đau thương ấy chỉ diễn ra ngoài trận địa. Hậu phương, thành phố nơi tôi đang yên vui cắp sách đến trường, chỉ biết hồn nhiên với khung trời tuổi nhỏ, sống cuộc đời êm ả trong mái ấm gia đ́nh. Làm sao có thể biết rơ và thấu hiểu hết được sự hi sinh như thế nào của những người lính chiến và những tàn phá khổ đau trên quê hương khói lửa triền miên ngày ấy.

Người chiến sĩ Lê Hằng Minh đă hiên ngang chiến đấu dưới màu cờ cùng đồng đội, chiến hữu. Và trong buổi sáng đẹp trời hôm đó, anh đă ra đi, dũng cảm và liệt oanh khi tuổi đời thanh niên của anh đang tràn đầy sức sống mạnh mẽ, trẻ trung. Chiếc đàn Guitaire yêu quư mà anh luôn mang theo bên ḿnh cũng đă vỡ tan trước mũi súng quân thù. Cuối tháng sáu, gió Hạ Lào đang thổi về như tiếng mẹ ru buồn bay lướt trên những dăy đồi trọc trống vắng quạnh hiu. Hồn anh du nhập theo bóng núi Trường Sơn trùng trùng ngạo nghễ, để lại xác thân bên ven bờ quốc lộ 1 những niềm đau nuối tiếc sống cuộc đời chưa phỉ, chưa đành đoạn xa rời những người thân yêu quư, xin cho trôi ra ḍng biển lớn bao la trước mặt, rửa sạch hết những hờn đau của một kiếp người. Nắng vàng tươi của buổi sớm mai đang trải rộng mênh mông trên mảnh đất cằn khô sỏi đá, tiễn đưa những người chiến sĩ đă sống và vừa chết cho quê hương. Những người con của Mẹ đă ra đi và nằm xuống, nhưng khí hùng bất tử của các anh vẫn là những giọt nắng vàng tươi lấp lánh và chiếu sáng trong hồn Dân tộc, trong ḷng những người c̣n lại hôm nay và măi đến muôn đời sau. Trung tá Lê Hằng Minh đă anh dũng đền xong nợ nước vào lúc 8 giờ 50 phút sáng tại chiến trường miền Trung năm 31 tuổi, ngày 29 tháng 6 năm 1966, trong bao niềm tiếc thương của bạn bè, thượng cấp và đồng đội chiến hữu khắp các đơn vị.

Chiều hôm sau, chiếc quan tài phủ lá cờ Tổ quốc đă đưa người chiến sĩ Lê Hằng Minh về Sài G̣n. Chiều hôm ấy mưa rơi tầm tă, gió lạnh tơi bời như những niềm đau cắt ruột của những người thân trong gia đ́nh vừa mất đi một người con, người em, người anh thương yêu. Người mẹ đă cho đi bốn người con trai (Lê Minh Đảo, Lê Hằng Minh, Lê Hằng Nghi, Lê Quang Thạch) vào trong Quân ngũ. Sau này đă khóc trước sự ra đi vĩnh viễn của 2 người con (Tr/T LHM & T/S LQT) cùng năm tháng ṃn mỏi đợi chờ 2 người con c̣n lại trong lao tù Cộng sản mười mấy năm dài sau biến cố lịch sử 30/4/75 (Thiếu Tướng LMĐ & Đại úy LHN). Chiếc quan tài buồn đă được đưa về ngôi nhà mà Tr/T LHM đă được sinh ra và lớn lên ở Hàng Keo - Gia Định. Người Mẹ đă một thân C̣ nuôi dưỡng một đàn con với bao ḍng nước mắt đau khổ chảy xuôi. Hôm nay thêm một lần chảy xuống thành ḍng máu lệ trong trái tim của người mẹ hiền già nua héo hắt! Mọi người trong gia tộc đều thương tiếc và yêu thương LHM đến nỗi cho sơn chiếc quan tài màu trắng là màu ông rất ưa thích lúc sinh thời. Họ đều không được nh́n mặt ông lần cuối mà chỉ biết ôm lấy chiếc quan tài đă phủ kín xác thân, than khóc tiếc thương. Đám tang của ông được cử hành trọng thể, trang nghiêm với các lễ nghi quân cách, Tổ quốc ghi công, và an táng tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi - Sài G̣n. Cố Tr/T Lê Hằng Minh được ân thưởng: Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, với nhiều Anh Dũng Bội Tinh, Nhành Dương Liễu, Ngôi Sao Vàng, Bạc và nhiều huy chương khác của QLVNCH.

Trên mộ là bức h́nh cố Trung tá Lê Hằng Minh mặc quân phục, đội nón sắt (do một phóng viên người Mỹ chụp và đăng h́nh trên báo Marine Corps Gazette & Time News) cùng khắc hai câu thơ “V́ tôi là lính áo rằn. Ra đi nào biết mấy trăng mới về”. Bởi ông đă chọn đời binh nghiệp, hiến cuộc đời cho Tổ quốc, sẵn sàng chấp nhận hi sinh nên đă không dám nghĩ đến t́nh riêng, sợ vướng khổ cho cuộc đời cô nhi quả phụ nên khi chết vẫn c̣n độc thân, chưa lập gia đ́nh. Cái chết của Tr/T Lê Hằng Minh đă là một cái tang xót đau lớn cho gia đ́nh, ngờ đâu 6 tháng sau lại thêm sự ra đi vĩnh viễn của người em gái kế là Lê Mộng Huyền đang là một cô giáo hiền ḥa tươi trẻ (dạy học trường Quốc Gia Nghĩa Tử), v́ không chịu nổi sự buồn đau trước cái chết đột ngột của người anh ruột mà cô hết ḷng yêu kính.

Là một sĩ quan ưu tú của quân đội, là một nghệ sĩ vui tính với ngón đàn tuyệt diệu. Tr/T Lê Hằng Minh c̣n là một người con rất hiếu thảo với mẹ. Dường như ông biết đời lính chiến của ḿnh có thể ra đi bất cứ lúc nào nên ông đă viết một lá thư tỏ bày sự kính yêu cùng một khoản tiền dành dụm được lúc du học ở Hoa Kỳ, để lại cho mẹ sau ngày ông mất đi. Và đây là những ḍng hồi kư ông đă ghi lại những cảm xúc và tâm t́nh lúc bé thơ, thể hiện một con người đa cảm và nhân ái:

“Ngày... tháng... năm...

Bệnh viện Nguyễn Văn Học tục gọi là bệnh viện nhà nước hay nhà thương thí cũng thế. Anh em ḿnh lớn lên bên bệnh viện này, liên hệ mật thiết với nó như bóng với h́nh. Ḿnh chào đời vào lúc 8 giờ tối ngày 18/5/1935 tức (16/4 năm Ất Hợi) trong khu Bảo sinh, pḥng dành cho công chức, do bà sáu Nhiều đứng đỡ...

Hầu như ḿnh thuộc nằm ḷng vị trí của bệnh viện, nào là pḥng khám bệnh, phát thuốc, trại 1, trại 2, trại 3, trại 4, trại 5, trại 7, trại Bùi Văn Lố và trại bảo sanh. Sở dĩ ḿnh nhớ như vậy v́ bao lần má sinh các em, nào lúc ba bệnh, những khi ḿnh ốm đau đều nhờ nó cả!

Ḿnh lớn khôn, đi xa, thấy rộng, ḿnh có cảm tưởng càng ngày bệnh viện càng nhỏ hẹp lại, cằn cỗi, già... theo má ḿnh vậy!

Mỗi lần đi xa trở về, đi ngang bệnh viện, ḿnh tŕu mến nh́n, có ư thưa: “Con mới về đây”.

Ngoài má ra, bệnh viện này là bà mẹ thứ hai có công ơn nuôi dưỡng anh em ḿnh khôn lớn khỏe mạnh đến ngày nay!”

“Ngày... tháng... năm...

Đến trường

Sáng hôm ấy, vào năm 1940, ḿnh được má đưa đến trường Mac Ferrando - Gia Định.

Đêm trước, ḿnh thấy nao nao, cảm giác là lạ khi nghe ngày mai ḿnh phải đi học. Ḿnh thấy ba má, chị Hai, chị Ba, anh Tư đều bận rộn việc đi học của ḿnh. Nhứt là anh Tư *, anh vỗ tay dí vào mũi ḿnh, vừa nhảy cà tửng vừa chộ ḿnh. “Ê, mai mày đi học rồi. Ê, ê...”. Ḿnh nghĩ có lẽ v́ ảnh đi học mà ḿnh ở nhà đi chơi với anh Xái nên ảnh tị, bây giờ nghe ḿnh đi học ảnh khoái lắm!

Sáng sớm, bị ba đánh thức rất sớm, ḿnh ăn lót ḷng cháo trắng với đường, ba cho ḿnh “hai đồng nửa xu” mới tinh, tay ôm cuốn dầu “con thỏ và con rùa”, tay phải nắm tay má rụt rè tới trường... thỉnh thoảng ḿnh buông tay má vạch túi xem hai đồng nửa xu c̣n không.

Đến cổng trường, trời... học tṛ sao mà đông thế. Những đứa lớn đùa giỡn, la lối, rượt bắt nhau như ong vỡ tổ. Mặt ḿnh lúc ấy h́nh như mếu rồi, ḿnh sợ quá nắm tay má thật chặt, mặt cứ rúc vào tà áo dài bằng hàng trắng thật mới của má, ḿnh ngửi mùi hàng thấy ngọt ngào làm sao! Có những tên lạ cũng mếu, ngơ ngác theo ba má chúng đi xin học như ḿnh!

Trước căn pḥng hiệu trưởng, nhiều người d́u con đi học nên có sự chen lấn xảy ra. Có một tên chèn ḿnh v́ bị ba nó kéo lên phía trước... Suưt chút bị sút tay khỏi tay má, ḿnh sợ lạc má nên vội thúc vào hông nó thật mạnh khiến hắn khóc ré lên...

Đến phiên ḿnh vào, trời khiếp, ông Đốc Măo sao to béo thế. Ông cầm đơn xin học của ḿnh đoạn nhướng mắt nh́n ḿnh qua làn kính trắng, giọng oang oang hỏi má: “Tṛ Minh chưa đủ tuổi mà học cái ǵ?”. Má vội đưa tấm danh thiếp giới thiệu của ông Dournot, thanh tra người Pháp, ông này quen với ba sao đó. Bấy giờ ông Đốc Măo “dịu giọng” ngay: “Thôi được” và ra lệnh người tùy phái dẫn má và ḿnh đến lớp năm A gặp thầy Phước làm ḿnh thất vọng quá. Đang hi vọng trở về v́ chưa đúng tuổi! Mặt méo xẹo, riu ríu theo má đi gặp thầy Phước, tay ông đang cầm cây thước nhịp nhịp vào không khí, ḿnh thấy ông ta nghiêm quá, vội rúc vào ḷng má, ôm chân má thật chắc. Thầy Phước khẽ cười, cúi đầu đáp lễ má và nói: “Dạ, bà giao em cho tôi”, tay th́ nắm lấy tay ḿnh kéo đi, ḿnh khóc rú lên “má ở đây má ơi!”, má cười gượng, gỡ tay ḿnh đang ôm đùi má và an ủi ḿnh: “Không sao đâu con, má phải về c̣n đi chợ nữa chớ”. Ḿnh cố gào thét nhưng vô hiệu!

Má đi rồi, thầy Phước vừa dỗ vừa dọa, tay ông cầm cây thước dọa dọa. Không c̣n má, ḿnh thấy bơ vơ trong thế giới của học đường và sợ hăi trước ông giáo xa lạ, ḿnh hết dám khóc. Thầy Phước d́u ḿnh đến ngồi bàn thứ hai.

Ḿnh lấy tay áo mới, chùi mắt và mũi, khẽ liếc chung quanh, thấy các bộ mặt “mếu” chẳng khác ǵ ḿnh, chúng đang lấm lét nh́n ông thầy. Ḿnh thấy dường như vừa mất mát cái ǵ to lớn lắm!

(*) (Anh Tư: Thiếu Tướng Lê Minh Đảo)

Ngày... tháng... năm...

Ngày băi trường đầu tiên

Ḿnh làm quen thế giới học đường được một năm rồi, sau kỳ thi tất cả 52 đứa đều được lên lớp tư. Không biết thông lệ từ hồi nào, ngày băi trường là học sinh đóng tiền liên hoan đăi Thầy do các tên lớn đề xướng và tổ chức.

Hôm ấy, từ lớp tư trở lên đều liên hoan rầm rộ. C̣n lớp ḿnh im ru buồn hiu v́ toàn là bé con. Chẳng có tên nào lănh đạo, thành lớp ḿnh buồn hơn đám ma!

Có lẽ cảm thấy nỗi buồn ấy, hơn nữa sắp xa đám học tṛ, các tác phẩm do chính tay ḿnh gầy dựng cả năm trời... bất thần có tiếng leng keng của người Tàu già bán kẹo đục đi qua. Thầy Phước vội kêu vào bảo đục 53 phần kẹo, mỗi phần một xu!

Năm mươi ba phần kẹo được đục xong, thầy Phước móc bóp đếm cẩn thận năm tờ giấy một cắc và ba đồng xu, trả tiền kẹo, tay run run...

Lúc ấy, ḿnh hết nh́n người bán kẹo lại nh́n thầy Phước, xong lại nh́n 53 phần kẹo, miệng nuốt nước bọt. Ḿnh thấy thương thầy Phước quá, bao nhiêu lần bị phạt, bị đ̣n trong năm đều tiêu tan hết...

Thầy Phước tay chắp sau đít, đi qua đi lại như bao ngày, ông ho gằn mấy tiếng có lẽ v́ cảm động, đoạn nói: “Các em, hôm nay ngày băi trường, thầy tṛ ḿnh bắt đầu xa nhau... Hôm nay, thầy đăi các em một xu kẹo đục, bắt đầu tṛ Ẩn đi lên lần lượt lănh kẹo”. Tụi ḿnh lănh hết, c̣n lại một phần, ông cầm lấy và ra lệnh ăn. Đứa nào đứa nấy mặt hớn hở nh́n Thầy đầy tŕu mến!

Trong đời ḿnh, có lẽ không có bữa tiệc nào quư và cảm động bằng một xu kẹo đục của thầy Phước...”

Tâm hồn Lê Hằng Minh giàu cảm t́nh và nhân hậu là thế, nên khi hồi tưởng lại giây phút tôi gặp chú lúc đi lạc giữa súng ống và binh lính ngổn ngang, sợ hăi đứng khóc một ḿnh trong ngày biến cố đảo chánh ở thành Cộng Ḥa. Đang là vị sĩ quan chỉ huy và cũng chắc rất đang bận rộn với những trách nhiệm của ḿnh, vậy mà chú cũng đến bên tôi, dỗ dành cho nín khóc và đưa về tận nhà. Đó là h́nh ảnh tôi không quên qua nghĩa cử của một người có tấm ḷng nhân ái đối với trẻ em. Và cũng từ cơ duyên đó, 38 năm sau tôi mới có dịp viết, vẽ lại chân dung người lính Việt Nam Cộng Ḥa cao đẹp qua h́nh ảnh cố Trung tá Lê Hằng Minh.

Chú Minh ơi, sau khi cánh cổng rào nhà cháu khép lại, là từ đó cháu không bao giờ c̣n gặp lại chú nữa. Nhưng hôm ấy, cháu c̣n giữ lại nơi chú một nụ cười tŕu mến vỗ về, dù cháu đă hết sợ và nín khóc từ lúc mới gặp chú. Cả ngày hôm đó, con bé tám tuổi vẫn nhớ tới chú v́ c̣n giữ mấy cánh hoa sứ trắng trong túi áo mà chú đă nhặt và hái cho. Cháu đă đem ép vào những cuốn sách mà cháu yêu thích nhất v́ nghĩ hương thơm hoa sứ sẽ c̣n hoài trên những trang sách đó. Thỉnh thoảng qua hồ tắm Nguyễn Bỉnh Khiêm chơi và đi lượm hoa sứ rụng, cháu vẫn c̣n nhớ tới chú với lời hẹn hôm nào gặp lại sẽ được chú đàn cho nghe như lời chú hứa. Mà chẳng biết tới bao giờ đây (?).Hơn một năm sau, nhà cháu dọn ra khỏi cư xá đi nơi khác và chút kỷ niệm thân ái bé nhỏ ấy cũng dần nhạt nḥa theo những ngày tháng cháu lớn khôn thêm. Một đôi lần cháu theo mẹ vào Tổng Y Viện Cộng Ḥa thăm ba cháu những lúc ông bị thương, cháu lại nh́n thấy những hàng bông sứ trắng được trồng dọc theo mấy dăy hành lang bệnh viện trắng toát u buồn, làm những cánh hoa rơi khẽ chỉ lặng lẽ tỏa hương để không gian nhẹ bớt phần thê lương của những người thương binh. Cháu lại thoáng nhớ đến chú rồi lại quên trong cái tuổi hồn nhiên vô tư lự. Vài năm sau, có một lần cháu sang nhà hàng xóm chơi, thấy sân nhà bác Thiếu tá Nhàn mới nở mấy cây hoa sứ kiểng rất đẹp. Cháu hỏi xin, bác từ chối, cháu cố năn nỉ: “Cháu chỉ xin bác một bông thôi, bác xem có bông nào xấu nhất, bác cho cháu nhé!”. Bác Nhàn bật cười: “Hoa nào cũng đẹp, chỉ có mỗi bác Nhàn là xấu thôi, không có hoa nào xấu cả, cháu ơi”. Bác Nhàn nói thế để lờ đi đấy mà (Dĩ nhiên là không rồi, v́ đó là hoa kiểng của bác mới nở được có mấy bông). Nhưng lúc ấy cháu c̣n trẻ con, nên nghĩ bụng, bác Nhàn xấu thật, ḿnh xin có mỗi một hoa nào xấu nhất, vậy mà bác cũng không cho. Rồi cháu chợt nhớ tới chú, tới những bông sứ trắng nơi hàng cây bóng mát tuổi thơ của cháu ngày nào mà đă có lần được chú hái cho bỏ đầy hai túi áo ngày xưa.

Năm tháng trôi qua với biết bao đổi thay, biến động của cuộc sống và t́nh h́nh đất nước, cháu đâu c̣n có dịp nào để nhớ lại câu chuyện bé nhỏ ngày xưa ấy. Cho đến một hôm, trước ngày Quân lực 19/6/02 vài ngày, cháu t́m hiểu và liên lạc với một số vị chỉ huy của những trận chiến oai hùng của Quân đội VNCH để phỏng vấn trong chương tŕnh phát thanh “Tiếng Việt mến yêu” nhân dịp kỷ niệm ngày Quân lực VNCH. T́nh cờ cháu nh́n thấy h́nh của chú trên b́a đặc san Sóng Thần - 2002 trong văn pḥng làm việc, cháu thấy khuôn mặt và nụ cười của người lính này sao nh́n quen quá, rất quen, rồi... không sao nhớ thêm được tí nào nữa. Cháu vẫn nhớ chú tên Minh nhưng không biết nguyên tên họ chú là Lê Hằng Minh. Ngay lúc đó cháu cũng đang đọc cuốn bút kư “Cuộc chiến dang dở” của chuẩn tướng Trần Văn Nhựt (cũng là bạn học với chú) vừa gửi tặng. Đến đoạn viết về cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 với sự tham dự TĐ4/ TQLC của chú, cháu mới chợt nhớ ra như ḍng suối đă được khơi nguồn. Câu chuyện và những h́nh ảnh đă lăng quên, nay giật ḿnh nhớ lại th́ đă 36 năm trôi qua. Cháu cũng không biết rằng sau lần gặp chú th́ chỉ hơn hai năm sau, chú đă anh dũng hi sinh trong cuộc chiến ở miền Trung, và cũng không hề biết chú là em của Th/Tướng Lê Minh Đảo dù đă tṛ chuyện với ông vài lần qua một cuộc phỏng vấn trên Đài Phát Thanh. Thêm một t́nh cờ ngẫu nhiên khi cháu nhớ ra chú và muốn t́m hiểu thêm về trận đánh ngày 29/6/66, lúc tiếp chuyện với Đại tá Ngô Văn Định là người thay thế chức vụ Tiểu đoàn trưởng TĐ2/ TQLC ngay buổi chiều chú vừa hi sinh, cháu nhắc với ông: “Hôm nay là ngày giỗ của chú Lê Hằng Minh, ngày 29 tháng 6”. Ông cũng bùi ngùi nói: “Đó là người chiến hữu thân của tôi đă mất cách đây đúng 36 năm, không ngờ hôm nay c̣n có người nhắc nhớ và viết đến. Cám ơn cô Ngọc Thủy!”. Rồi ông liên lạc ngay với người bạn rất thân của ông từ nhiều năm qua và cũng là một người bạn rất thân mến từng sát cánh cùng chú trong nhiều năm binh nghiệp hiện đang định cư ở Iowa là Đại tá Tôn Thất Soạn, và bất ngờ trong một cuộc điện đàm, Đ/T Tôn Thất Soạn có cho cháu biết ông đă nghe được câu chuyện này cách đây hơn ba mươi năm về trước: “Trong ngày 1/11/63, TĐ4/ TQLC chia ra làm 2 cánh quân. Lúc đó tôi là Tiểu đoàn phó TĐ4/TQLC giữ cánh B đóng ở Nha Cảnh sát, c̣n Tiểu đoàn trưởng Lê Hằng Minh th́ đưa cánh quân A qua thành Cộng Ḥa. Sau ngày đảo chính, có một lần, anh ngồi cười kể cho tôi nghe chuyện gặp một cô bé đi lạc, anh đă đến dỗ dành và đưa cô bé ấy về nhà. Tôi nghe anh Định kể về nguyên nhân câu chuyện của cô muốn đi t́m chi tiết để viết về anh Minh là tôi nhớ lại ngay cũng câu chuyện này đă từng được nghe Lê Hằng Minh kể, tôi không ngờ cô bé đi lạc hồi đó là cô Ngọc Thủy bây giờ”. Và sau đó ông đă gởi ngay cho cháu một bài viết về một số những trận đánh ông từng tham dự sát cánh với chú, trong đó có đoạn: Trong những ngày diễn tiến của biến cố 1/11/63, Tiểu đoàn 4/ TQLC đă hoàn thành nhiệm vụ giao phó mà không gây thiệt hại ǵ cho đơn vị đối phương hoặc dân chúng địa phương. Điều này đă nói lên được tinh thần kỷ luật của đơn vị rất cao cũng như t́nh Quân dân như cá nước của các chiến sĩ Ḱnh Ngư (TĐ4/ TQLC) mà điển h́nh là một câu chuyện kể của người anh cả Ḱnh Ngư (TĐT Lê Hằng Minh) một ngày sau đó (1/11/63): “Với quân phục rằn ri cọp biển, đi đứng hiên ngang hùng dũng, nón sắt chiến trận nặng nề, chụp trên đầu của khuôn mặt sạm nắng, cặp mắt quầng thâm thiếu ngủ, với bộ ria mép rậm rạp như trong phim “cow boy” Mexico, với dây súng gắn dài đạn đồng đeo chéo ngực v.v... khiến ai nh́n mà không khiếp đảm, huống hồ là một em bé gái bé bỏng 8 tuổi của đô thành hoa lệ Sài G̣n, nào có biết chiến tranh là ǵ; nên khi Đ/U Minh và các binh sĩ từ trên xe GMC nhảy tràn xuống đường gần thành Cộng Ḥa để chiếm các vị trí bố pḥng dọc theo nhà dân hai bên vệ đường, khiến em bé gái này sợ hăi quá, khóc thét lên... Tuy với vóc dáng bên ngoài “gồ ghề” là thế, vậy mà bên trong chứa ẩn một trái tim nhân hậu và đầy t́nh cảm. Đ/U Minh người anh cả Ḱnh Ngư, đă quỳ một chân xuống bên cạnh em bé gái đó, để đưa tay vuốt tóc em bé cho đỡ sợ và nói những lời an ủi dịu ngọt để cho em vững tâm mà nín khóc... Sau đó em bé đă hiện nét mặt vui mừng, tṛ chuyện và anh đă đưa cô bé về nhà gần đó...”. Đại úy Minh đă kể lại cho tôi nghe câu chuyện này vừa xảy ra hôm qua với nét mặt hân hoan của một người nhân hậu vừa làm được việc tốt lành. Tôi có nghe nhưng rồi cũng bỏ qua, nhưng không ngờ sau 38 năm, lại được em bé gái đó, bây giờ là một nữ văn sĩ hiện định cư ở San Jose, Cali... lúc đọc được ĐSST - 2002, đă bất ngờ nh́n thấy lại h́nh cố Tr/Tá Lê Hằng Minh trên trang b́a sách của đặc san. Một kỷ niệm trong sáng của một thời thơ ấu đă gợi lại h́nh ảnh một anh hùng mũ xanh của năm nào! Nhưng thật đáng buồn, v́ bây giờ người anh hùng đó đă thành người thiên cổ!”

Nghe ông Đ/T Soạn nhắc lại cháu rất cảm động, nên viết thành mấy câu thơ:

Sao người không tặng cho tôi
một bông sứ trắng cho đời thơm hương
Tặng chi tôi một giọt sương
Trên bông hồng đỏ, dễ thường không khô?
Biết đời như một giấc mơ
Th́ tôi xin một phút chờ cho vui!
Nhớ bông sứ trắng một thời
Có con bướm trắng bay rồi, đă bay...
(Thơ N.T.)


Chú Minh ạ, cháu thật sự xúc động bởi chú không những là người lính có t́nh người nhân hậu và trái tim nghệ sĩ năm xưa cháu đă gặp, mà qua chú sống dậy trong ḷng cháu những h́nh ảnh thật kiêu hùng cùng những hi sinh quả cảm của những người trai thời loạn đă dành cho Tổ quốc Việt Nam: sự sống và tuổi trẻ cùng tấm ḷng yêu dân tộc quốc gia. Hơn nữa, chú và hàng trăm vạn người lính trẻ khác đă chiến đấu và đă chết cho quê hương. Đó là những anh hùng không tên tuổi. Nhưng Tổ quốc và ḷng người dân Việt không bao giờ quên họ. Trong ḍng cảm xúc này cùng sự hỗ trợ từ những người thân của chú, cháu mong được nhắc nhớ lại h́nh ảnh của một chiến sĩ Lê Hằng Minh, cũng là h́nh ảnh của muôn ngàn người anh hùng không tên tuổi mà cháu rất kính phục và biết ơn họ đă dâng hiến cuộc đời cho tổ quốc non sông và đă “vị quốc vong thân”, đem lại yên vui êm ấm cho bao người trong đó có cả những tháng ngày thơ ấu, tuổi trẻ của cháu đă hưởng được sự an lành tốt đẹp.

Chú Minh biết không, nh́n những bức h́nh của chú trước mặt, cháu thấy lại nguyên vẹn h́nh ảnh của người đại úy trẻ đă nh́n cháu với nụ cười tŕu mến vỗ về và cháu vẫn là cô bé tám tuổi đi lạc ngày nào, không có thời gian cách biệt. Nhưng có một điều, cháu sẽ chẳng bao giờ gặp lại để chú đánh đàn cho nghe, và những cánh hoa sứ ép khô cùng hương hoa ngày cũ trên những trang sách đẹp ngày xưa của cháu đă trôi lạc theo ḍng đời bể dâu đă từ lâu lắm rồi... không t́m thấy nữa.

Sau ngày chú ra đi, ngủ yên trong ḷng đất mẹ, chín năm sau, miền Nam tự do thân yêu của chúng ta đă rơi vào tay cộng sản. Đă 27 năm qua, quê hương vẫn lầm than tăm tối. Bây giờ cháu đang sống ở xứ người, ḷng vẫn nhói đau mỗi khi đọc những mẩu tin tức ở quê nhà, bao nhiêu là thảm cảnh và tệ trạng, bao nhiêu là bất công phi lư, cuộc đời những người dân nghèo Việt Nam vẫn triền miên đọa đày trong đói khổ lầm than. Đó là những tiếng kêu như rên xiết, xé ruột trong ḷng mà cháu không biết ḿnh phải làm sao! Cháu biết chú cũng buồn như cháu và mọi người khi thấy quê hương thân yêu ḿnh qua bao năm vẫn điêu linh khốn khổ, chưa có được ngày đẹp tươi của ánh sáng Tự do - Giàu mạnh cho mọi người được hưởng cuộc đời văn ḿnh, ấm no chung.

Thôi để cháu nói qua chuyện khác cho chú nghe nhé. Bây giờ cũng đang là mùa hạ ở xứ Mỹ này, ở đây không có hàng cây bông sứ trắng như ở quê nhà, nhưng có một loài hoa khác rất đẹp cũng rộ nở vào mùa hè, đó là hoa Magnolia, c̣n được gọi là hoa Thiết Mộc Lan. Hoa màu trắng, nở to như hoa sen làm mát rượi cả một mùa hè, mát cả con đường cháu vẫn đi qua hàng ngày. Với cánh hoa tươi đẹp này cháu xin gởi tặng chú trong ngày giỗ thứ 36 của chú hôm nay. Và cũng xin kính tặng hai bài thơ nhỏ để tưởng nhớ đến chú cùng dâng lên anh linh các chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa đă hi sinh cho Tổ quốc Việt Nam:

SAU CUỘC CHIẾN
Người lính đó không về sau cuộc chiến
Phố vẫn đông trong những ngày cuối tuần
Ngôi Giáo đường rung hồi chuông cầu nguyện
Nửa cho chàng, nửa cho khắp Việt Nam!

Ngọc Thủy
Mùa hè 29/6/2002

NGƯỜI CHIẾN SĨ MŨ XANH
Hồi năm tám tuổi tôi đi lạc
Người dẫn tôi về: Lê Hằng Minh!
Ba tám năm rồi, tôi vẫn nhớ
Người gọi tôi là cô bé xinh!
Trong tôi h́nh ảnh người không mất
Măi măi anh hùng của Việt Nam
Người lính dễ thương và lẫm liệt
Khiến tôi yêu măi Nước cùng Non.

Ba tám năm rồi, người đă mất *
Giang sơn buồn quá... cũng như người!
Tôi và triệu triệu người xa xứ
Buồn quá cứ nh́n mây trắng trôi!
Tôi lật từng trang buồn kư ức
Từng trang nước mắt đọng bao giờ!
Một lần tháng sáu ngày hai chín
Tôi gởi về người: thân ái xưa!

Ba tám năm rồi, tôi mấy tuổi?
Người ơi... tôi biết người thiên thu!
Lê Hằng Minh hỡi, trên sông núi
Hồn xác người đâu? đang ở đâu?
Có thể đă tan cùng cát bụi?
Hay là đang quyện khói hương đây?
Trên đường trận mạc, người đi tới
Áo trận bao lần mưa nắng phai...

Ba tám năm rồi như giấc mơ!
Non sông Tổ quốc... chuyện không ngờ!
Có người nhắc Huế rồi lau mắt
Nhắc những anh hùng, thôi, đủ chưa?
Lê Hằng Minh ở trong ḷng Huế
Cùng bạn bè đi vào sử xanh
Một nén hương thơm mà ấm nhỉ
Tôi đi khép lại cửa mông mênh!

Hồi năm tám tuổi, tôi đi lạc
Không gặp người th́ tôi ra sao?
Nhiều lúc giật ḿnh tôi nhớ lại:
Tuổi thơ là một giấc chiêm bao!
Người mất, tuổi tôi c̣n bé lắm
Bây giờ vẫn bé đến muôn năm
Nếu người c̣n sống tôi c̣n lạc
Lại được người d́u mỗi bước chân?

Lê Hằng Minh hỡi! thương mến chú!
Những giọt lệ từ “cô bé xinh”
Xin rót xuống đây - ḷng biển cả
Ḷng người chan chứa một niềm tin
Rằng mai đất nước ḿnh tươi thắm
Huế dựng uy nghi một tượng đài
Trong khói nhang thơm trùm quá khứ
Bao người vị quốc đă vong thân!


* (Trung Tá Lê Hằng Minh đă anh dũng hi sinh lúc 31 tuổi tại mặt trận miền Trung, Vùng I Chiến thuật ngày 29 tháng 6 năm 1966).

CHÚT HƯƠNG TRONG GIÓ

Sáng, em nh́n một đám mây
Trời xanh, mây trắng, chút này đủ thương!
Gió như c̣n chở chút hương
Của hoa sứ trắng trong vườn mộng xưa...

Sáng mà sao em c̣n mơ
Ai kia trong đám lá chưa nhuộm vàng?
Nghĩ hoa sứ chắc giờ tan
Như mây trắng lát bay ngang mặt trời...

Ơi hoa sứ một thời ơi
Buồn trong con mắt cuối đời không chao?
Ai kia trong đám lá chào?
Không đâu! Gió động cành đào xuân duyên...

Trả cành hoa sứ cho em *
Trả luôn những bước chim chuyền b́nh minh!
Hỡi ơi em nói một ḿnh
Cành xuân gió động, giọt t́nh... là sương!


N.T.
* (hoa Sứ c̣n được gọi là hoa Đại)

ANH HÙNG VÔ DANH

Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can đảm và tận t́nh giúp nước.

Họ là kẻ tự ngh́n muôn thuở trước
Đă phá rừng, xẻ núi lấp rừng sâu
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một dải sơn hà gấm vóc...

Họ là những anh hùng không tên tuổi
Trong loạn ly như giữa lúc thanh b́nh
Bền một ḷng dũng cảm chí hi sinh
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch.

Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật

Nhưng máu họ đă len vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và anh hồn chung với tấm t́nh trung
Đă ḥa hợp làm linh hồn giống Việt.


Đằng Phương

[_templates/thtqlcvn-footer.htm]