| 
						 
						
						NGƯỜI BÁN SÁCH TRÊN BĂI BIỂN NHA-TRANG 
						 
						Tôi trở về thăm quê hương sau hơn mười lăm năm, kể từ 
						ngày vượt biển ra đi. Tôi quyết định điều này qua bao 
						nhiêu đêm ưu tư trằn trọc. Tôi chẳng c̣n ai thân quen 
						bên ấy để về thăm. Mẹ tôi mất hồi tôi mới lên năm. Cha 
						tôi chết cuối năm 1977 trong trại tù cải tạo Đá Bàn, khi 
						tôi đang ở một trại tù khác tận núi rừng Việt Bắc và măi 
						năm năm sau tôi mới nhận được tin buồn. Đứa em gái mà 
						tôi thương quí nhất, mang h́nh ảnh của người mẹ mà tôi 
						chỉ c̣n mơ hồ trong kư ức, cũng đă kết liễu cuộc đời ở 
						cái tuổi tưởng chừng lúc nào cũng có cả một bầu trời 
						xanh bao la trước mặt. C̣n bạn bè tôi, thằng chết, đứa 
						ra đi, gởi thân khắp bốn phương trời. Biết là lần trở về 
						này, rồi cũng chẳng khác ǵ cái ngày cách đây mười sáu 
						năm, từ một trại tù miền Bắc trở về, tôi bơ vơ lạc lơng 
						trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của ḿnh. Tôi cũng 
						không có ư định về đây để t́m lại những kỷ niệm ngày 
						xưa. Những “hang động tuổi thơ”chắc cũng đă biến mất 
						trước bao nhiêu giông tố năm nào bất ngờ ụp xuống. Bây 
						giờ chỉ c̣n sót lại chút ít trong ḷng những người tha 
						phương lưu lạc. Bản thân tôi có quá nhiều đớn đau và mất 
						mát ngay trên chính cái thành phố một thời xinh đẹp này. 
						Tôi sợ phải nh́n lại cái quá khứ hăi hùng và tang thương 
						đó. Tôi về chỉ để làm một điều, mà nếu không làm được, 
						ḷng tôi sẽ ray rứt khôn nguôi. Có lẽ đến khi chết tôi 
						vẫn không làm sao nhắm mắt. 
						Tôi về để t́m lại phần mộ của cha và em tôi, cải táng 
						đem về an táng bên cạnh phần mộ của mẹ tôi trong nghĩa 
						trang gia tộc ở quê tôi ngoài Vạn Giă. Điều ước mơ của 
						cha tôi, mỗi lần ông kể cho tôi nghe về mẹ tôi và chuyện 
						t́nh khá lăng mạn nhưng cũng nhiều cay đắng của ông bà. 
						Cha tôi được chôn cất sơ sài trên núi Đá Bàn, bên ngoài 
						một trại tù cải tạo lúc xưa. C̣n em gái tôi, được gia 
						đ́nh một cô bạn thân chôn cất tại một nghĩa trang ngoài 
						Đồng Đế. Khó khăn và may mắn lắm tôi mới t́m được tin 
						tức về mộ phần của cha và em tôi sau hơn hai mươi năm. 
						Nhờ một người bạn cùng tù với cha tôi, chính tay ông đă 
						đào huyệt cho cha tôi; và gia đ́nh cô bạn thân của em 
						gái tôi, vượt biên từ năm 1978, hiện định cư tận bên Ḥa 
						Lan, cung cấp chi tiết và vẻ cả bản đồ hướng dẫn cho 
						tôi. 
						 
						Ngồi trên máy bay, tôi lo lắng đủ điều. Mộ em tôi nằm 
						trong một nghĩa trang, dù chưa được xây, nhưng có tấm 
						bia đúc bằng xi-măng nên có lẽ dễ t́m; nhưng phần mộï 
						của cha tôi, nằm trong núi và cái trại cải tạo ngày xưa 
						bây giờ đă biến thành một khu kinh tế mới. Gần ba mươi 
						năm rồi, có biết bao sự đổi thay. 
						Cuối cùng th́ tâm nguyện của tôi cũng hoàn thành được 
						một nửa. Trái ngược với những lo lắng ban đầu, tôi dễ 
						dàng t́m ra phần mộ của cha tôi. Mặc dù bối cảnh chung 
						quanh thay đổi, nhưng bà con ở vùng kinh tế mới này đa 
						số là dân thành phố bị cưởng bách “tự nguyện” lên đây, 
						một số ngày xưa là lính và công chức. Biết đây là mộ của 
						những người tù cải tạo, nên họ thương mà rào lại và giữ 
						ǵn. Những dịp cuối năm họ đều thắp hương, tảo mộ và kẻ 
						lại tên trên những tấm bia bằng gỗ, dù đă rong rêu qua 
						bao nhiêu mùa mưa nắng. Riêng phần mộ của em tôi, ṃ mẫm 
						suốt cả hai tuần tôi vẫn t́m không ra. Cả khu nghĩa 
						trang bây giờ thay đổi. Người chết nhiều quá. Nhiều ngôi 
						mộ mới xây, nhưng cũng có một số đă được cải táng, dời 
						đi nơi khác. Nhà cửa cất san sát bên nghĩa địa. Người 
						sống bây giờ ở chung với người chết. Tôi bắt chướt người 
						xưa khấn vái, xin hồn thiêng em tôi về chỉ cho tôi ngôi 
						mộ của em nằm. Nhưng lời vái của tôi vẫn không thiêng. 
						Tôi thuê người cải táng phần mộ của cha tôi. Đi từng nhà 
						trong khu kinh tế mới cám ơn ḷng tốt của mọi người. Đưa 
						hài cốt của cha tôi về an táng bên cạnh mẹ tôi, trong 
						nghĩa trang gia tộc, thuê thợ xây lại tất cả những ngôi 
						mộ đă bao nhiêu năm không có ai chăm sóc. 
						 
						C̣n một ngày nữa là hết hạn visa. Tôi muốn đi một ṿng, 
						t́m lại chút ǵ của Nha-Trang xưa. Mùa hè Nha-Trang bây 
						giờ dường như nóng bức hơn ngày xưa. Tôi thuê một chiếc 
						xích lô chạy dọc theo con đường Duy-Tân cũ. Vừa để cho 
						mát, vừa muốn t́m lại những lùm cây dương ngày trước, 
						thuở chúng tôi và bạn bè hẹn ḥ sau những lúc tan 
						trường. Một số lùm dương vẫn c̣n đó, nhưng trơ trọi, 
						điêu tàn. Tôi bảo anh phu xe cho tôi xuống trường 
						Vơ-Tánh. Anh phu xe c̣n trẻ, thắng xe lại, ngạc nhiên. 
						Tôi hiểu, nên tôi bảo tôi sẽ chỉ đường, anh cứ theo tôi. 
						Ngôi trường cũ, nơi tôi có biết bao kỷ niệm của ba năm 
						theo học, bây giờ không những cái tên trường, mà tất cả 
						đều trở thành xa lạ. Những hàng cây phía trước không 
						c̣n. Ngôi trường đứng chơ vơ, chẳng c̣n sót lại chút ǵ 
						thơ mộng, gây trong tôi một cảm xúc bẽ bàng hơn là 
						thương tiếc. Bất giác tôi nhớ đến em tôi. Đứa em gái 
						xinh đẹp dễ thương, đă cho tôi cái ấm áp của cả một gia 
						đ́nh, trong những ngày chúng tôi lớn lên không có mẹ. Em 
						học bên trường Nữ Trung Học, nhưng thường đến đây chờ 
						tôi để hai anh em cùng ra biển. Em tôi thích tắm biển, 
						nhưng ngại đến đó một ḿnh nên thường rũ tôi đi theo hộ 
						tống. Tôi tha hồ làm t́nh làm tội mấy anh chàng muốn đến 
						làm quen, tán tỉnh em tôi. Tôi đi bộ dọc theo băi biển, 
						t́m đến khu có nhiều cây dừa trước trường Bá-Ninh lúc 
						trước, nơi ngày xưa em tôi thường ngồi ở đó. 
						Tôi đưa mắt nh́n một ṿng từ xa. Nơi bậc xi măng tiếp 
						giáp băi cát, một người tàn tật đang khó nhọc dùng cánh 
						tay duy nhất c̣n lại giữ thăng bằng trườn xuống. Trông 
						anh ta giống như một con cóc. Len lỏi trong đám người đi 
						tắm, anh hướng về phía tôi ngồi. Lưng anh mang túi vải 
						chứa đầy sách, và kéo lê trên cát một cái túi vải nữa, 
						cũng toàn là sách. Anh lê lết từng quăng, từng quăng 
						ngắn. Bất ngờ anh ta ngước lên. Thấy tôi gật đầu chào, 
						anh ta nh́n tôi cười rạng rỡ, để lộ hàm răng trắng. 
						Khuôn mặt tuấn tú, râu quai hàm, vầng trán cao với mấy 
						sợi tóc vắt ngang rất nghệ sĩ. Anh dùng bàn tay duy nhất 
						lôi một cuốn sách trong túi vải đang nằm trên mặt cát và 
						từ từ mở ra. Tôi liếc qua. Cuốn sách có cái tựa viết 
						bằng tiếng Anh, nói về chuyện chuyến tàu Titanic. Tôi 
						nhớ đến cuốn phim cùng tên, mới quảng cáo rầm rộ trên 
						truyền h́nh Nauy mà tôi chưa kịp đi xem. Bỗng tôi tṛn 
						mắt ngạc nhiên khi nghe anh mở lời chào và giới thiệu 
						cuốn sách bằng tiếng Anh mà anh phát âm rất lưu loát, 
						không thua kém ǵ những người Việt đă sinh sống lâu năm 
						ở nước ngoài. Anh lầm tưởng tôi là người Nhật hay Đại 
						Hàn ǵ đó. Tôi thán phục anh vô cùng và bảo với anh tôi 
						là người Việt, định cư ở Nauy, nên tŕnh độ tiếng Anh 
						của tôi chỉ vừa đủ nói dăm ba câu xă giao, chứ làm ǵ có 
						thể thưởng thức được văn chương. Tôi cám ơn anh và móc 
						ví ra định biếu anh một chút tiền, nhưng anh vội đưa tay 
						ngăn lại 
						- Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành tiền cho những người 
						c̣n nghèo khổ hơn tôi. 
						Anh nhỏ nhẹ bằng một giọng thân thiện và lễ độ. 
						Câu nói và thái độ của anh làm tôi rất đỗi ngạc nhiên. 
						V́ từ khi tŕnh giấy thông hành vào nước, trước những 
						người mang lon, đội măo đại diện cho cả môt quốc gia mà 
						cũng không có được phong thái thanh tao như anh; và 
						chẳng lẽ ở trong cái thành phố ”mũi nhọn du lịch” này 
						lại c̣n nhiều người khốn khổ hơn anh ? 
						Tôi đành mua một cuốn sách để anh vui ḷng nhận tiền, 
						nhưng rồi thấy anh cứ loay hoay moi hết túi nọ đến túi 
						kia, để t́m đủ tiền thối lại cho tôi. 
						Tôi muốn hỏi thăm anh vài câu, nhưng anh đă nhoẻn miệng 
						cười và gật đầu chào tôi rồi vội vàng lết sang mấy người 
						khách nước ngoài đang nằm phơi nắng trên hàng ghế phía 
						trước. 
						Từ hôm ấy, h́nh ảnh người tàn tật bán sách trên băi biển 
						Nha-Trang cứ lẩn quẩn trong đầu và theo tôi về tới Nauy; 
						để rồi nếu có ai đó lỡ lời nói điều ǵ không mấy tốt về 
						những người nghèo khổ ở Việt nam, tôi có cảm tưởng như 
						đang xúc phạm đến anh, người bán sách khả kính mà tôi 
						bất ngờ được gặp. 
						 
						Năm sau, tôi lấy một tháng hè về lại Việt nam. Lần này 
						tôi mua vé và nhờ cha cô bạn của em tôi, từ Ḥa Lan, 
						cùng về với tôi. Ông là người đă giúp chôn cất em tôi 
						ngày trước. Tôi không ngờ là ḿnh phải về lại Việt nam 
						lần thứ hai. Một điều mà trước đây tôi không hề nghĩ 
						tới.. Nhưng tôi phải làm tṛn bổn phận của người anh với 
						cô em gái, mà nếu trước kia tôi lo lắng cho nó chu đáo 
						hơn, biết đâu bây giờ nó c̣n sống để cho tôi khỏi cảnh 
						côi cút một ḿnh. 
						Sau một chuyến bay dài, tôi mệt đừ người. Tôi trở về từ 
						vùng Bắc Âu lạnh lẽo, bây giờ lại gặp cái nắng oi nồng 
						của vùng nhiệt đới. Sau khi thuê khách sạn xong, tôi 
						chạy ngay ra biển tắm. Nằm dài trên băi cát, tôi bỗng 
						nhớ tới người bán sách năm xưa. Tôi thả bộ theo bờ biển 
						về hướng mấy cái lều có bóng dáng nhiều người ngoại quốc 
						đang từ khách sạn kéo ra, bỗng mắt tôi sáng lên khi nh́n 
						thấy người tàn tật đang lê lết theo sau. Cũng hai cái 
						túi vải đựng sách. Đúng là anh tàn tật bán sách năm 
						trước chứ c̣n ai. Tôi mừng thầm như sắp sửa được gặp lại 
						con người mà bấy lâu nay tôi thường nghĩ tới với ḷng 
						mến mộ. Tôi suy nghĩ làm cách nào để anh ta vui ḷng 
						nhận sự giúp đỡ của ḿnh. Nhưng người tàn tật lúc nào 
						cũng bám sát vào những người nước ngoài. Tôi để ư thấy 
						người ta cũng không mua sách và chỉ cho anh tiền. Tôi 
						ngạc nhiên khi thấy anh ta cười, hớn hở nhận tiền rất 
						điệu nghệ, không nghe anh nói cái câu thật tử tế mà một 
						năm trước anh đă lễ phép nói vơiù tôi “Cám ơn anh, nhưng 
						xin anh để dành cho những người c̣n nghèo khổ hơn tôi”. 
						Một cái ǵ đó thật đẹp vừa bị sụp đổ trong ḷng. Tôi cảm 
						thấy người nóng hừng hực. Không biết là sức nóng giữa 
						ban trưa hay v́ máu nóng bốc lên đầu. Tôi cắm đầu chạy 
						lao vào những đợt sóng cuồng nộ đang từ ngoài khơi đổ 
						vào bờ. 
						Nước biển trong xanh, sóng biển như những cánh tay ôm 
						tôi vào ḷng vuốt ve, dỗ dành. Mặt nước mênh mông, trăi 
						rộng đến những dăy núi mờ xanh tận cuối chân trời. Tôi 
						nghe văng vẳng trong không gian như có ai đang dạo đàn 
						bản Nha Trang Ngày Về. Thiên nhiên phần nào giúp tâm hồn 
						con người rộng mở và dễ cảm thông hơn. 
						Sau một hồi quần với sóng biển, tôi cũng tạm quên người 
						tàn tật bán sách đă làm tôi hụt hẫng. Nhưng khi vừa bước 
						lên bờ cát th́ tôi lại trông thấy anh ta đang o bế mấy 
						người nước ngoài và đưa tay xin cả thức ăn thừa. Tôi 
						nghi ngờ, có thể là người tàn tật này không phải là 
						người tàn tật năm xưa. Tôi đến gần hỏi thăm. Nhưng chưa 
						hỏi hết câu hắn đă “Đ.m. cái khứa đói ră họng ra mà c̣n 
						làm cao ấy hả. Chết mẹ nó rồi..” 
						Chỉ nghe cái giọng lỗ măng của hắn, tôi đủ biết chắc hắn 
						ta không phải là anh – người tàn tật bán sách mà năm 
						trước tôi đă gặp -. Tôi theo người bán sách này với ư 
						định hỏi thăm thêm về anh cho ra lẽ, nhưng thấy hắn ta 
						chẳng mấy tha thiết. Hắn di chuyển chậm, nhưng mắt hắn 
						lại quan sát thật nhanh về những đám người đang xuống 
						băi ở quăng xa. Và khi đi ngang qua chỗ ngồi của người 
						đàn bà bán cua luột, hắn hất hàm bảo: ” Đó, vợ khứa đó ! 
						” 
						Tôi liền chụp ngay cơ hội, hy vọng t́m ra manh mối. 
						Nhưng khi tôi lân la lại gần, thấy chị bán cua luột này 
						có vẻ nghiêm trang khác với những người bán hàng rong 
						b́nh thường, tôi không biết phải bắt đầu làm sao. Tôi 
						mua hết con cua này tới con cua khác mà chẳng ăn con 
						nào. Và cứ mỗi lần chị định quảy gánh đi chỗ khác, tôi 
						gọi giật lại mua thêm một con nữa để giữ chân chị. Vừa 
						lúc chị nhận ra người khách mua cua này cũng có ǵ khác 
						thường, tôi buột miệng : “Chị là vợ của người tàn tật 
						bán sách trên băi biển này mấy năm trước ?”. Chị ngớ 
						người ra, im lặng nh́n tôi. Có lẽ thấy tôi là một người 
						xa lạ sao lại ṭ ṃ vào một chuyện riêng tư. Tôi kể cho 
						chị nghe cái cảm t́nh đặc biệt mà tôi đă dành cho anh 
						ấy. Tôi muốn t́m cách giúp anh một phần nào nỗi thống 
						khổ tật nguyền. Tôi tha thiết muốn biết về anh. Dường 
						như những lời chân thật của tôi làm cho chị xúc động. 
						Chị nh́n tôi, đôi mắt thật buồn : 
						- Em không phải là vợ của anh ấy. Tụi em cùng cảnh khổ 
						nên đùm bọc lấy nhau mà sống. Một số người đùa, gán ghép 
						tụi em rồi quen gọi thế thôi, anh ạ. Anh ấy đă chết cách 
						nay hơn tám tháng. Em đă lo chôn cất anh ấy. 
						Ḷng tôi thắt lại, một phần v́ cảm thương anh trong cảnh 
						khốn cùng, một phần ân hận là giá năm trước ḿnh t́m 
						cách giúp đỡ anh, biết đâu đă cứu được anh. Tôi có ư 
						muốn nhờ chị đưa tôi ra mộ để thắp cho anh nén hương. 
						Chị ngại ngùng nhưng cuối cùng gật đầu hẹn bốn giờ chiều 
						chờ tôi trước khách sạn tôi ở. 
						Tôi thuê chiếc taxi, và xin phép cùng ngồi với chị ở 
						băng ghế sau để dễ dàng tṛ chuyện. Trên đường ra nghĩa 
						trang, chị say sưa tâm t́nh cùng tôi, như từ lâu lắm chị 
						không có dịp nói ra những điều bao năm dấu kín trong 
						ḷng. Chị tên Trang. Cha chị trước kia là một trung sĩ 
						địa phương quân, bị thương năm 1968, trong trận tết Mậu 
						Thân, nên được giải ngũ. Mẹ chị mất từ khi chị c̣n bé 
						lắm. Cha chị không chịu tục huyền mà ở vậy nuôi đứa con 
						độc nhất của ḿnh. Nhờ số tiền trợ cấp ban đầu, ông mua 
						được một căn nhà tôn trong khu dành cho thương phế binh, 
						nằm phía sau ga xe lửa. Ông xin được cái chân bán vé cho 
						hăng xe đ̣ Phi Long ở bến xe Xóm Mới. Lương ba cọc ba 
						đồng cộng với tiền hưu bỗng hàng tháng, ông dành dụm cố 
						lo lắng cho cô con gái học hành. Năm 1974, xong lớp 12, 
						chị thi đậu vào trường sư phạm. Sau ngày Nha-Trang “giải 
						phóng”, chị bị loại ra bởi lư lịch “ngụy quân” của cha. 
						Lúc này, gia đ́nh trở nên bi đát. Cha chị, tất nhiên, 
						không c̣n được lănh tiền hưu bỗng ngày trước, chị không 
						t́m ra bất cứ việc ǵ làm. Cuối cùng cha chị đành phải 
						bán một nửa căn nhà vốn đă chật chội để mua một chiếc 
						xích lô làm phương tiện sinh nhai. C̣n chị th́ đi bán 
						hàng rong từ dạo ấy. 
						- Đến bây giờ ông cụ vẫn c̣n đạp xích lô ? Tôi ṭ ṃ 
						hỏi. 
						- Ông mất lâu rồi anh ạ. Tội nghiệp, ông thương anh Bá 
						lắm, xem anh ấy như con. 
						Tôi ngạc nhiên : 
						- Anh Bá nào ? 
						- Người tàn tật bán sách đó. 
						Đến bây giờ tôi mới biết tên của anh. 
						Chị cho biết anh Bá ngày xưa là trung úy phi công. Máy 
						bay của anh bị bắn rơi vào những ngày Sài g̣n nguy khốn, 
						khi yểm trơ cho mặt trận Long Khánh của Sư Đoàn Tướng 
						Đảo. 
						Anh được anh em bộ binh tiếp cứu, nhưng anh bị thương 
						rất nặng, phải đưa về tổng y viện Cộng Ḥa. Sau cuộc 
						giải phẫu khá dài, anh tỉnh lại. Nhưng khi biết được 
						ḿnh bị mất hai chân và một cánh tay, anh ngất xỉu và 
						hôn mê suốt cả một tuần. Ngay sau khi Sài g̣n vừa “giải 
						phóng”, anh bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Ḥa khi vết 
						thương chưa lành. Gần hai tháng sau cha em gặp anh ấy 
						trên bến xe Xóm Mới. Biết được phần nào hoàn cảnh thương 
						tâm, cha em lấy xích lô chở anh về nhà chăm sóc vết 
						thương và anh sống với cha con em từ dạo ấy. 
						- Anh ấy không có thân nhân. Tôi hỏi 
						- Anh có một cô em gái ở đây, nhưng mà chết lâu rồi. Ban 
						đầu không nghe anh nói điều này. Măi sau này thấy trên 
						đầu giường của anh có thờ tấm ảnh của một cô con gái và 
						có nhiều đêm rất khuya anh ngồi bất động trước tấm ảnh, 
						cha em hỏi mấy lần, anh mới bảo đó là cô em gái duy nhất 
						của anh. 
						- Anh không c̣n bạn bè ? 
						- Nghe nói anh đang học một khóa phi hành ở đâu bên Mỹ, 
						rồi nhờ có tŕnh độ anh ngữ khá, anh được lưu lại Mỹ làm 
						sĩ quan liên lạc không quân. Nghe tin miền Nam nguy 
						khốn, anh t́nh nguyện xin về chiến đấu. Vừa về nước, anh 
						ra chiến trường ngay và bị nạn khi đang bay phi vụ thứ 
						hai. Có lẽ v́ vậy mà không nghe anh nhắc tới bạn bè. 
						 
						Xe dừng lại, tôi bước xuống trả tiền và bảo anh tài xế 
						chờ tôi hoặc có thể quay lại sau 30 phút. Tôi bước vào 
						nghĩa trang khi ḷng c̣n vương vấn một câu chuyện buồn. 
						Tiếng chuông nhà thờ từ đâu vọng lại càng làm cho ḷng 
						tôi chùn xuống. Đi quanh co một lúc, chị Trang bảo tôi 
						dừng lại và chỉ cho tôi ngôi mộ của anh Bá, nằm bên cạnh 
						ngôi mộ của cô em gái. Cả hai ngôi mộ được xây bằng đá 
						đơn giản, trên tấm bia có cả tấm ảnh 
						. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên mộ bia anh Bá có h́nh một 
						thập tự giá, v́ đây là nghĩa trang Phật giáo. Tôi đến 
						trước mộ anh, thắp ba nén hương thâàm khấn vái cho anh 
						được sống an b́nh trong một thế giới chẳng c̣n thù hận, 
						và nói lên ḷng cảm mến của một người đồng đội cũ. Tôi 
						nh́n kỹ tấm ảnh của anh trên mộ bia, tấm ảnh chụp lúc 
						anh c̣n là sinh viên sĩ quan không quân, phong độ, hào 
						hùng. Trông khuôn mặt quen quen. Có lẽ do bộ quân phục 
						làm tôi nhớ tới khuôn mặt của những bạn bè ngày trước. 
						Tôi bước sang mộ cô em gái, thắp ba nén hương cho một 
						người không hề quen biết. Tôi ṭ ṃ bước lên xem tấm ảnh 
						trên mộ bia. Bỗng đầu óc tôi choáng ván, mắt tôi mờ đi 
						như chẳng c̣n trông thấy những ǵ trước mặt. Trời ơi, có 
						điều ǵ lầm lẫn hay không ? Người trong tấm ảnh chính là 
						An B́nh, cô em gái yêu dấu của tôi. 
						Tôi cố gắng lấy lại b́nh tĩnh, mở đôi mắt thật to để 
						nh́n kỷ lại tấm ảnh. Không thể lầm lẫn được. Chính tấm 
						ảnh của em tôi mà tôi vẫn treo trên bàn thờ cùng với ảnh 
						của cha và mẹ của tôi. Tôi vẫn thường đứng hằng giờ 
						trước những tấm ảnh này mỗi khi thấy ḿnh quá đỗi cô đơn 
						trên xứ lạ quê người. Làm sao tôi có thể nhầm lẫn được. 
						Bỗng dưng tôi khóc sụt sùi. 
						Trang nh́n tôi ngạc nhiên : 
						- Anh có quen biết em gái anh Bá ? 
						Tôi im lặng không trả lời, bảo chị cùng đi với tôi. 
						Chiếc taxi vẫn c̣n đợi tôi tự năy giờ. Tôi móc bóp t́m 
						địa chỉ của cha cô bạn thân của em tôi, đă từ Ḥa Lan về 
						đây trước tôi hai ngày, và chúng tôi hẹn gặp nhau ngày 
						mai. Bác trọ ở nhà một người em trong khu cầu Xóm Bóng. 
						Tôi đưa địa chỉ cho anh tài xế. Chỉ hơn năm phút sau là 
						anh ta đă t́m được. May mắn là bác có ở nhà. Tôi xin lỗi 
						bác là đă đến t́m bác sớm hơn ngày hẹn. Báo cho bác là 
						tôi đă bất ngờ t́m được mộ của em tôi. Xin bác cùng đi 
						với tôi ra nghĩa trang để xác nhận lại vị trí ngôi mộ 
						của em tôi mà ngày trước bác đă có ḷng chôn cất hộ. 
						Trở lại nghĩa trang, tôi đề nghị bác dẫn đường, như muốn 
						để xác minh chắc chắn là bác biết rơ ngôi mộ ấy. Bác ṃ 
						mẫm gần 30 phút mới t́m được ngôi mộ của em tôi. Bác 
						ngạc nhiên là ngày ấy bác chỉ kịp dựng một tấm bia, chứ 
						không có xây mộ đá như bây giờ, và trên bia cũng chỉ có 
						tên chứ không có h́nh ảnh của em tôi. 
						Tự năy giờ Trang vẫn c̣n ngạc nhiên, không biết rơ việc 
						ǵ. Tại sao cô gái này là em gái duy nhất của anh Bá mà 
						cùng là em gái của tôi ? Tôi xin lỗi v́ xúc động quá, 
						tôi sẽ kể cho Trang nghe trên đụng về nhà. 
						Tôi đưa cha cô bạn của em tôi về lại nhà trọ, cám ơn bác 
						và hẹn gặp lại bác vài hôm sau. Trên đường về, tôi kể 
						lại cho Trang nghe về hoàn cảnh của gia đ́nh tôi. Tôi đi 
						lính xa nhà, mỗi năm chỉ về phép một đôi lần.  
						An B́nh, đứa em gái duy nhất của tôi ở Nha-Trang với cha 
						tôi. Ông là một thầy giáo, ngày xưa dạy ở trường 
						Pháp-Việt lúc tôi mới lên ba. Sau ngày về hưu ông được 
						bà con mời làm chủ tịch hội đồng xă. Ông bị bắt vào trại 
						cải tạo Đá Bàn sau ngày Nha-Trang ”giải phóng”, rồi v́ 
						tuổi già sức yếu, không chịu nổi sự tra tấn, ông đă chết 
						gần một năm sau đó. Em gái tôi nối nghiệp cha, sau khi 
						tốt nghiệp ở trường sư phạm Qui Nhơn, v́ hoàn cảnh gia 
						đ́nh, được về dạy ở Nha trang. Có lần tôi về phép, em kể 
						cho tôi nghe về mối t́nh của em với một chàng sinh viên 
						sĩ quan không quân. Em có đưa cả tấm ảnh cho tôi xem và 
						hẹn sẽ giới thiệu với tôi khi chàng ta ở Mỹ trở về. Em 
						lo lắng v́ anh là người Bắc di cư, công giáo, không hiểu 
						có khó khăn ǵ cho cuộc hôn nhân. Tôi bảo nó yên tâm, ba 
						tôi theo tây học, nên ông quan niệm về tôn giáo rộng răi 
						lắm. 
						Sau khi cha tôi vào trại cải tạo, căn nhà của chúng tôi 
						bị chính quyền mới tịch thu để làm hợp tác xă mua bán. 
						Em tôi không được tiếp tục dạy học nữa nên ra Xóm Bóng ở 
						chung với cô bạn học nối khố tự ngày xưa, chắt chiu số 
						tiền c̣n dành dụm được để thăm nuôi cha tôi. Ngay sau 
						ngày Sài-g̣n mất, em có vào t́m thăm tôi và người yêu 
						của cô. Hơn hai tuần đi thăm hỏi khắp nơi, em tôi về nằm 
						khóc cả mấy ngày liền, nói với tôi là người yêu của nó 
						đă chết mất xác ở chiến trường Long-Khánh. Tôi an ủi em 
						tôi, bảo nó về Nha-Trang cố gắng thay tôi lo lắng cho 
						cha, chờ ngày cha và tôi trở về sum họp. Tôi vào tù hơn 
						sáu tháng, hai lần được phép gởi thư về nhà, vẫn không 
						thấy em gái hồi âm. Cho măi trước khi được chuyển ra 
						Bắc, tôi mới nhận được thư của cô bạn thân của nó, báo 
						tin là nó không kiếm được việc ǵ làm, túng quẫn, buồn 
						chán, nên đă uống nguyên một ống thuốc ngủ. Gia đ́nh cô 
						chở vào bệnh viện, nhưng không cứu được, v́ không t́m ra 
						thuốc giải. 
						Chị Trang suy nghĩ miên man và như chợt nhớ ra được điều 
						ǵ. Chị bảo khi c̣n sống, anh Bá không đi làm vào ngày 
						chủ nhật. Anh đi lễ nhà thờ rồi ra mộ suốt cả ngày. 
						Chính anh đă dành dùm tiền bạc thuê người xây lại ngôi 
						mộ và mua phần đất dành cho ḿnh. Khi chôn cất anh xong, 
						chị t́m thấy một tập nhật kư dấu kỹ dưới đầu giường. Chị 
						vẫn c̣n để trên bàn thờ, chờ ngày giáp năm th́ đốt luôn. 
						Chị bảo tôi cùng về nhà với chị, để chị trao lại cuốn 
						nhật kư, kỷ vật duy nhất của một người cùng sống chung 
						trong cảnh khốn cùng với cha con chị trong gần ba mươi 
						năm, và bây giờ mới biết đó là người yêu của cô em gái 
						thương quí của tôi. 
						Chị bảo taxi dừng lại trước một ngơ tắt phía sau ga xe 
						lửa. Tôi trả tiền, theo chị băng qua hai con đường sắt, 
						đi quanh co theo mấy con hẻm th́ đến nhà. Tôi xin phép 
						thắp hương trước bàn thờ của ba chị và Bá, trên một cái 
						kệ nhỏ bằng gổ treo trên vách. Tôi khẩn khoản xin chị 
						nhận một số tiền để chăm sóc ngôi mộ của ông cụ, em gái 
						tôi và Bá, một ít làm vốn buôn bán để đỡ vất vả hơn xưa. 
						Tôi xin nhận Trang là cô em kết nghĩa và từ nay Trang là 
						ngưỡi thân quen duy nhất của tôi c̣n lại ở Nha-Trang. 
						Chia tay, tôi đi bộ về khách sạn, cầm theo cuốn nhật kư 
						trên tay, mà cứ tưởng như ḿnh vừa nhận một món quà quí 
						giá của người thân gởi về từ một cơi nào đó thật xa xăm. 
						 
						Ngày 2/5 
						Vết thương c̣n đau đớn và máu c̣n thấm đỏ qua mấy lớp 
						băng, vậy mà ḿnh bị người ta đuổi ra khỏi Tổng Y Viện 
						Cộng Ḥa, trong hoàn cảnh tứ cố vô thân. May mắn nhờ một 
						ân nhân nghèo nhưng lại giàu ḷng bác ái, đùm bọc, nuôi 
						nấng và chăm sóc vết thương. 
						Nhiều lần, trong vực sâu tuyệt vọng, ḿnh không muốn 
						sống thêm một ngày nào nữa, nhưng ḷng ḿnh lúc nào cũng 
						hướng về chúa Kitô, và xin phó thác tất cả ở nơi Ngài. 
						……. 
						Ngày 20.6 
						Cuối cùng, th́ ḿnh quyết định trở về Nha-trang, bởi lẽ 
						ḿnh không c̣n có một chỗ nào khác để trở về. Ḿnh về 
						đây để t́m lại những kỷ niệm đẹp đẽ nhất của đời ḿnh, 
						của những ngày ḿnh c̣n có An-B́nh. Từ ngày gặp An-B́nh, 
						ḿnh nghĩ là ḿnh đă thuộc về Nha-Trang, miền thùy dương 
						rạt rào thơ mộng này. Đau đớn thay, hôm nay ḿnh chẳng 
						phải là ḿnh ngày trước, mà chỉ là một kẻ tật nguyền thê 
						thảm. Ḿnh sẽ không bao giờ gặp lại An-B́nh, mà chỉ mong 
						về đây để được sống với h́nh ảnh của nàng 
						Ngày 08/7 
						Ngày hôm nay có lẽ là ngày đau đớn nhất trong đời ḿnh. 
						Đau đớn hơn cả cái ngày ḿnh tỉnh dậy trong quân y viện 
						và biết ḿnh trở thành một người tàn phế. Ḿnh lê lết 
						khắp nơi hỏi thăm tin tức An-B́nh, được biết là em đă 
						quyên sinh. An-B́nh ơi, xin em hăy tha thứ cho anh. 
						Trong vận cùng của một đất nước mà anh chỉ là một thằng 
						lính hèn mọn nhỏ nhoi, làm sao có thể giữ được bầu trời 
						Nha-Trang này cho em, và cho những kỷ niệm của chúng 
						ḿnh.. 
						 
						Một hồi chuông nhà thờ làm tôi giật ḿnh. Ngẫng đầu lên 
						mới biết ḿnh đang đừng trước nhà thờ đá. Tôi thẩn thờ 
						bước lên những bậc “tam cấp”, đến trước tượng Đức Mẹ. 
						Tôi là người ngoại đạo, không biết phải cầu nguyện như 
						thế nào. Tôi chấp hai tay trước ngực, kính cẩn xin Thiên 
						Chúa Từ Bi và Đức Mẹ Maria cứu vớt linh hồn của hai 
						người hoạn nạn và xin cho họ được cùng phục sinh với 
						Chúa để t́nh yêu của họ măi măi vĩnh hằng trong một thế 
						giới b́nh an, không c̣n có hận thù. 
						Tôi không c̣n ư định dời ngôi mộ em tôi về bên cạnh cha 
						mẹ tôi. Tôi về quê, quỳ trước mộ cha mẹ tôi để xin phép 
						được xây lại hai ngôi mộ của em tôi và Bá chung trong 
						một ṿng thành. Không ai có quyền chia rẽ họ thêm một 
						lần nữa, dù bây giờ chỉ c̣n là một thế giới vô h́nh. 
						Cũng như lần trước, ngày cuối cùng, tôi thuê xích lô đi 
						một ṿng dọc theo con đường Duy Tân cũ. Con đường đẹp 
						nhất của Nha-Trang. Những cơ sở công quyền, những dinh 
						thự của cán bộ bây giờ đựơc dựng lên nguy nga đồ sộ. 
						Nh́n lá cờ màu đỏ trên mấy nóc nhà, bỗng dưng tôi lạnh 
						toát cả người. Chẳng lẽ những thay đổi “to lớn”ấy mà 
						phải xây trên máu xương, trên những đớn đau, chia ĺa 
						thảm khốc của bao nhiêu thế hệ đă từng một thời góp sức 
						tạo nên cái thành phố hiền ḥa thơ mộng này. Bỗng chốc, 
						tôi không c̣n nh́n thấy thành phố Nha-Trang đâu nữa. 
						Trước mắt tôi bây giờ chỉ c̣n là một băi tha ma, dài ra, 
						vô tận. Tôi nghe trong gió văng vẳng tiếng đàn dạo bài 
						Nha-Trang, mà ngày xưa đài phát thanh Nha-Trang dùng làm 
						nhạc hiệu mở đầu. Tôi nhớ tới cái chết thảm khốc của 
						nhạc sĩ Minh-Kỳ, tác giả bản nhạc quen thuộc một thời 
						này, ông cũng đă bị giết vào tháng 8/75, khi cùng bị 
						nhốt chung với tôi trong trại tù cải tạo An Dưỡng, Biên 
						Ḥa. 
						 
						Phạm Tín An Ninh 
						(Vương Quôc Na-Uy)  |