| 
			 
			Có Những Người 
			Trai -- Hồi kư ra trường về những bạn bè cùng khóa  
			
			Một ông già 
			đứng tựa cửa ra vào, đăm đăm nh́n tôi đang vội vă bước vào hội 
			trường của Nhật Báo Viễn Đông tại thành phố Santa Ana để kịp tham-dự 
			buổi họp mặt cựu tù Ái Tử B́nh Điền. Tôi nhận ra ông ngay dù đă gần 
			ba mươi năm kể từ ngày ra trại cải tạo. Với vóc dáng cao và gương 
			mặt dài, bạn tù ngày trước đặt cho cái tên khó nghe: Tư ngựa. Có rất 
			nhiều anh mang những cái tên nghe rất ngộ nghĩnh do có những chứng 
			tật trên người: Bân bần, Châu lác, Tư ghẻ, Long re, Sơn ướt, Cẩm 
			lai, Long phè, Châu Kê, Xuân thợ rèn, Y đại ca, Thục râu, Long trĩ. 
			Những cái tên rất dễ gợi nhớ cho dù thời gian có phôi pha đi nữa. 
			Nghe anh em kể rằng, vợ anh Long Re, nguyên là một phi công trực 
			thăng chiến đấu, đă nhiều lần mỗi khi gặp anh em đều vui vẻ nói: “Tôi 
			quư cái tên gọi này lắm, mỗi lần có ai nhắc đến, tôi thấm hiểu được 
			những săn-sóc của bạn bè trong tù trong lúc ốm đau như sốt rừng, 
			tiêu chảy, ngộ độc không có người thân bên cạnh, chỉ có các anh với 
			những việc làm cao quư giúp nhau một cách kiên nhẫn. Nay dù anh Long 
			đă qua đời nhưng tôi luôn biết ơn vô cùng!” 
			 
			Ông già Tư biết rơ sự liên hệ giữa tôi và một số bạn bè nên hỏi liền 
			một câu, tỉnh bơ không màng chi trước sự mừng rỡ của tôi khi gặp 
			lại: 
			 
			- Này, Phan Duyệt có c̣n sống không? Lần cuối khi gặp mặt, cậu bị vệ 
			binh trại hành hạ tàn bạo quá, tôi nghĩ e không sống nổi. Bao nhiêu 
			năm rồi, không sao quên được phong cách hiên ngang, anh hùng của cậu 
			ta trước bạo-lực. 
			 
			Ông nói với cái giọng khàn đục của tuổi già. Thoáng nh́n lên đôi mắt 
			đă quá nhăn nheo thấy rưng rưng ướt. Niềm cảm xúc vượt thời gian 
			này, dù cho đă quá chai sạn với cuộc sống, là những ǵ trân quư nhất 
			Duyệt đă để lại trong anh em khi rời xa quân trường. Qua bao năm 
			tháng, chốn thao trường nầy là nơi hun đúc cho ḿnh những ư chí 
			kiên-cường với một hành trang đầy những hoài băo phải đóng góp ǵ 
			cho đất nước. Có ai từ đó ra đi không khỏi vấn vương những nghĩa 
			t́nh huynh đệ vốn khắng khít như một sợi dây vô h́nh đầy thương yêu 
			và san sẻ đùm bọc lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh. 
			 
			- Duyệt c̣n sống, đang ở một ḿnh tại New York. Anh có một đứa con 
			trai đang phục vụ trong quân đội Hoa-Kỳ. 
			 
			Ở nơi xa đó, bạn có thấu chăng dư vị hạnh-phúc này. Giọt nước mắt 
			ngưỡng mộ và thương mến của một người ở tuổi hoàng hôn quư hiếm lắm. 
			C̣n biết bao người khác nữa và ngay anh em gốc trại tù biên giới 
			Cổng Trời, bạn đồng khóa Nguyễn Tiến Đạt, mười một năm tù và nhiều 
			người khác cũng mát ḷng khi nghe một anh tù lâu năm là Thiếu Úy 
			Phạm Văn Quế, PB SĐ 3 bị chuyển từ Ái Tử đến cùng trại với anh tại 
			Gia Lai v́ tội chống lại chế độ trong thời gian cải tạo: 
			 
			- Quân trường của các anh có anh Phan Duyệt bất khuất anh hùng lắm, 
			tôi nể phục vô cùng! Anh ta thẳng thắn vạch trần sự tàn bạo của Cộng 
			Sản trước mặt toàn trại. Đó là một người không sợ chết! 
			 
			Sẵn có phôn di động, tôi gọi liên lạc và trao lại cho ông già, để 
			mặc cho hai người tâm t́nh, tôi chen vào hội trường của nhật báo 
			Viễn Đông và t́m chỗ ngồi. Ḥa ḿnh trong không khí vui nhộn của 
			đông đảo bạn bè từ lâu mới gặp nhau, tôi có cảm tưởng như thời gian 
			đang ngừng lại: những tay bắt mặt mừng, những kỷ niệm xa xưa t́m về, 
			ai cũng tranh nhau kể những vui buồn của những ngày tháng te tua từ 
			lúc vào trại và cảm tạ trời đất đă phù hộ để có được ngày nay. 
			 
			Sau Tháng Năm năm 1975 Ngô Chi và Phan Duyệt vào trại Cồn Tiên trước 
			tôi. Trại nằm gần căn cứ A1, A2. Đứng trên đỉnh đồi, ta có thể thấy 
			rơ cầu Hiền Lương Quảng Trị nơi ngăn cách hai miền Nam Bắc và ḍng 
			sông Bến Hải uốn khúc lững lờ làm gợi nhớ trong ḷng người bao cảnh 
			trái ngang phân ly kẻ t́m tự do. Hai thằng bạn đồng khóa đón tôi 
			thật vui mừng đầy ngỡ ngàng xúc động: 
			 
			- Rứa là mi cũng vào đây! Định mệnh cuộc đời đă dun dũi gom tụi ḿnh 
			lại. Thêm một chặng đường đời có nhau, thật là ứa nước mắt mà cám ơn 
			trời cao. Ngày trước gắn bó ở Đà Lạt suốt mấy năm trời, đi đâu cũng 
			có nhau, ra trường cùng chung đơn vị với những kinh hoàng của một 
			trận chiến ác liệt nhất mà vẫn c̣n sống sót với nhau. 
			 
			Không giấu được xúc động, tôi siết chặt tay hai người bạn. Từng tế 
			bào da thịt như tê cứng bởi một thứ hạnh phúc vô h́nh: Ở hoàn cảnh 
			nầy mà vẫn c̣n có nhau! Tù đày mà an-ủi thật! 
			 
			Mới chỉ vài tháng trước đây, tại ngă ba Thái Lan, Long Thành. Vào 
			tối ngày 28 Tháng Tư năm 1975, quân Cộng Sản quyết chọc thủng pḥng 
			tuyến Đông Bắc hướng về Sài G̣n th́ gặp sức kháng cự mănh liệt của 
			quân ta. Các sĩ quan khóa 28, 29 Vơ Bị và khóa 4 CTCT/HD vừa măn 
			khóa tham chiến rất đông trong đơn vị Thủy Quân Lục Chiến tại chiến 
			trường này. Khi chiếc xe tải thương từ tuyến đầu lủi vào bộ chỉ huy 
			tiêu đoàn 1/TQLC giữa tiếng pháo đạn tơi bời, Ngô Chi đương là trung 
			đội trưởng vũ khí nặng nh́n thấy tôi trên chiếc băng ca bê bết máu, 
			mếu máo nói: 
			 
			- Huế ơi, tao nh́n thấy mày rồi. Mày về tới đây là tao mừng quá! Mới 
			mấy ngày từ lúc mày ra đại đội, tao trông tin mầy lắm. Qua máy 
			truyền tin, tao biết đơn vị mày đang đụng nặng và biết được mày là 
			sĩ quan cuối cùng ở đại đội. 
			 
			Vết thương ở ngực, cạnh trái tim làm tôi khó thở, y tá chiến trường 
			đă băng bó, nhưng máu vẫn c̣n ra nhiều quá, lại thêm khi tải thương, 
			pháo và đạn AT7 chống tăng nổ dồn dập trên đường đi khiến hai người 
			lính d́u vai hăi quá, hất té ngă nhào nhiều lần. Đau đớn, tôi chỉ 
			biết nh́n lờ mờ, nhưng cảm nhận được những ǵ Ngô Chi kể lể: 
			 
			- Mầy vậy là sống, nếu như mai nầy được chuyển về bệnh viện Lê Hữu 
			Sanh, hăy cố t́m liên lạc em tao là Ngô Từ, đơn vị Quân Tiếp Vụ SĐ7 
			và cho nó biết đă gặp tao ở giờ này như thế này và mạ tao sẽ biết 
			tin con. Sắp tới đây chưa biết sống chết như thế nào. 
			 
			Ngô Chi đặt băng ca tôi vào một góc hầm và trở về nhiệm vụ. Tôi 
			hướng mắt phía trên, ṿm trời lóe sáng từng chặp, đạn lân tinh nổ 
			gịn và rực sáng như những ṿng hoa lộng lẫy song song với những 
			tiếng nổ kinh hoàng của đủ loại đạn pháo, cối, đại bác của hai phe 
			đang kịch chiến. Tôi cố sức để nhắm mắt, cố ru ngủ quên bớt đau 
			nhưng không được v́ vết thương hành dữ quá. 
			 
			Đằng sau ánh lửa pháo bập bùng, một bóng dáng cao lớn lui tới điều 
			động, đó là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Dương Văn Hưng, tôi nghe giọng 
			nói rất rắn rỏi: 
			 
			- Tung tất cả hỏa lực, M72, lựu đạn, đánh tới cùng! Giữ tuyến bằng 
			bất cứ giá nào! Tôi đang ở sát anh em. 
			 
			Ông ta dũng cảm, cang cường, thách đố hiểm nguy, cùng chiến đấu như 
			bao nhiêu người lính cọp biển khác. Cũng với một cây súng trường và 
			áo giáp nón sắt, ông ta nhanh nhẹn chỉnh đốn hướng tác xạ súng cối 
			81, miệng luôn nhắc nhở anh em bám sát mục tiêu trước mặt. Người 
			hiệu thính viên rất vất vả bám chân ông khi vừa điều động các đại 
			đội qua máy truyền tin vừa đi quanh tuyến yểm trợ tinh thần chiến 
			sĩ. Lính nể ông như một thần tượng chiến trường. Mọi cử chỉ, điều 
			động của ông đều gắn liền sinh mạng của từng chiến sĩ. Từng toán 
			lính cởi bỏ nón sắt để đựng lựu đạn và lao vào pḥng tuyến. 
			 
			Thấp thoáng trong hơi mờ thuốc súng, tôi thấy một người con gái đẹp 
			khác thường. Với sắc áo rằn ri, mới thoạt nh́n trông rất vũ dũng, 
			nhưng nét thùy mị thanh tao trên gương mặt có mái tóc dài buông xơa 
			vẫn hiện rơ dáng dấp anh thư đầy quyến rũ. Ngô Chi cho biết đây là 
			người yêu của Thiếu UÔy Vơ Phúc, đại đội trưởng chỉ huy và cô đang 
			là sinh viên Văn khoa Sài G̣n. Thấy cảnh chiến trường cao độ, muốn 
			san sẻ hiểm nguy và dâng hiến hạnh phúc t́nh yêu cho người thương ở 
			những lúc sống chết cận kề, cô xâm ḿnh ra đơn vị, mặc chung một màu 
			áo trận, nằm giao thông hào và cũng cầm một cây súng M16 hướng về 
			phía địch như bao chiến sĩ khác. Vơ Phúc là con trai cả vị tiểu đoàn 
			trưởng TĐ 7/TQLC, Thiếu Tá Vơ Kỉnh với biệt danh là Ḱnh Ngư. Rời 
			trường Thủ Đức, anh theo gót chân cha gia nhập gia đ́nh cọp biển. Là 
			lính chiến, nhưng phong cách lịch lăm đa t́nh nên anh có cuộc t́nh 
			tuyệt vời đến lạ lùng. Anh em binh sĩ ở pḥng tuyến, mỗi lần thấy cô 
			đi ngang qua, nét hấp dẫn và sự tươi cười đă cho anh em niềm vui 
			lâng lâng thú vị khó tả. Khi cô đi xa họ quay trở lại vùng chiến 
			tuyến trước mặt, ḷng tươi vui cho dù mệnh hệ nào đến đi nữa. Đêm 
			đến, bên ngoài căn hầm “hạnh phúc” của họ, lính tráng tay cầm súng, 
			miệng hát vang những câu ca t́nh yêu như lời chúc tụng yêu thương 
			giữa những tiếng nổ đang rền vang giữa đêm đen. Đôi uyên ương không 
			chết trong trận đánh cuối cùng nầy, nhưng sau đó khi vào tù, anh bị 
			mất một con mắt v́ bị thương ở giờ phút cuối trước khi miền Nam sụp 
			đổ, không được chữa trị và người yêu anh đă đi xa từ khi anh vào 
			trại cải tạo của quân thù. Họ để lại cho nhau kỷ niệm một t́nh yêu 
			tuyệt vời như cuộc đời có một thời để yêu và một thời để chết. 
			 
			Phan Duyệt và Ngô Chi ở cùng một lán trại thuộc đội 8 Cồn Tiên. Mỗi 
			ngày hai bữa ăn thiếu thốn nhưng phải đi rừng suốt ngày và tối về 
			học tập nên sức khỏe sa sút rơ-rệt. Anh em tù dùng mọi kế mưu sinh 
			để chống chọi lại với cơn đói. Ngoài những cây, củ, lá rừng, những 
			sinh vật như rắn, cóc, nhái, chuột, sùng đều được tận dụng mới tạo 
			được thêm chất nhờn cho các cơ bắp. Những lúc bước lên đồi để khai 
			hoang, hai tay phải phụ đẩy đầu gối mới đi được. Một chiếc áo thun 
			màu mè có thể đổi được một con gà mái của người dân tộc. Lắm khi 
			trao đổi xong, làm thịt không kịp, xin gởi lại rồi có khi năm bảy 
			tháng sau trở lại, người Thượng đem cả năm bảy con gà ra đưa và nói: 
			 
			- Của người anh em đó! Con gà đẻ trứng, ấp con và bây giờ thành một 
			bầy. 
			 
			Chơn chất thật thà, ṣng phẳng của người dân tộc cũng là nơi tiêu 
			thụ một số áo quần mà sau này sinh ra nhiều giai thoại đẹp về một 
			tâm hồn cao thượng. 
			 
			Vào một hôm nọ, trong lán có anh tù mất một chiếc áo len. Giữa lúc 
			trời lạnh vùng núi buốt giá thế nầy, chiếc áo ấm giá trị lắm. Anh 
			bạn báo cáo cán bộ quản giáo, thế là mỗi ngày đi khai rừng phá rẫy 
			về, sau giờ cơm, phải ngồi lại, đấu tranh nhau t́m cho ra thủ phạm. 
			Cứ đêm này chưa ra th́ đêm khác tiếp. Rất lâu rồi mà chưa có kết 
			quả, anh em trong lán ngao ngán sự đời, lục đục với nhau. Quá sức 
			mệt mỏi của một ngày đi rừng, anh em rất thèm giấc ngủ. Một buổi tối 
			nọ, trong đội tuyên bố nhờ đấu tranh mà t́m ra thù phạm: Phan Duyệt 
			nhận tội và anh em được thoải mái nghỉ ngơi, không c̣n phải ngồi lại 
			nữa. Anh bị mời lên ban chỉ huy trại và chịu mọi h́nh thức kỷ luật, 
			tra khảo, những nhục h́nh đau đớn. 
			 
			Sau đợt kỷ luật nầy, trở về lán đội, Duyệt v́ sức yếu, được làm việc 
			nhẹ. Mùa Đông năm 76, cơn lạnh vùng núi ghê rợn: cá chết dưới nước, 
			chim rừng ủ rũ không buồn bay, người tù như một khúc gỗ di động, vấn 
			quanh thân tất cả cái ǵ có để chống lạnh như giấy, b́ ni lông, vải 
			cũ. Trong lán, các anh em có tiếp tế thăm nuôi mất đồ ăn càng nhiều 
			thêm. Các buổi ngồi họp đấu tranh t́m tiêu cực tiếp tục xảy ra. Phan 
			Duyệt vờ đánh rơi một mảnh giấy có ghi từng mục ngày nào ăn cắp cái 
			ǵ, của ai và cả một danh sách dài. Một ông tù lăo nhặt được, ngây 
			ngô tŕnh lên cán bộ quản giáo và đưa anh đi kỷ luật. Một mặt anh 
			thi hành những lệnh phạt trong conex, một mặt các tệ trạng giảm dần, 
			thủ phạm biết xấu hổ v́ lương-tâm làm việc. 
			 
			Cồn Tiên phục hồi đất đai canh tác nhờ công tù. Qua bao năm chiến 
			tranh, bom đạn đă biến thành một rừng hoang xô xảm với hàng ngàn hố 
			bom h́nh tṛn đều đặn. Lẫn trong các lùm cây mọc trùng điệp quanh 
			núi đồi là các cây nhiệt đới bằng nhựa có gắn chip điện tử bên 
			trong. Cây giống hệt cây rừng, thu được chấn động do bước chân người 
			hoặc súc vật đi ngang qua, được phóng từ máy bay dọc theo đường ṃn 
			McNamara để tạo dữ kiện ghi tọa độ bỏ bom. Dân cư di tản hết, sâu 
			hơn về phía núi là nơi sinh sống của những người dân tộc, họ chung 
			thủy với rừng, chung thân với núi và chung t́nh với cây cỏ. Họ luôn 
			ở lại trường sơn, sống du canh một cách tŕ chí trên những vùng đất 
			núi loang lổ dấu bom đạn. Họ quen thuộc sống trên những vùng sơn lam 
			chướng khí nầy để rồi măi măi yêu mến, kết chặt chốn Hoành Sơn hoang 
			dă nầy như một nguyên lư của t́nh yêu dân tộc. Xóa bỏ trại Cồn Tiên, 
			anh em cơng ba lô “hành quân” hướng về Ái Tử, dọc theo quốc lộ 9 nối 
			liền Khe Sanh nổi tiếng pháo đạn với thị trấn vùng giới tuyến Đông 
			Hà, bỏ lại đằng sau Tà Cơn, Lao Bảo, Ba Ḷng, chốn rừng thiêng nước 
			độc. Thỉnh thoảng tù nhân gặp vài người thượng tránh đường, họ đứng 
			yên lặng bên b́a rừng, miệng ngậm tẩu, ngực ẵm con, vai vác củi, đưa 
			ánh mắt vô t́nh nh́n đoàn người đi. 
			 
			Mẹ thương con qua cầu Ái Tử 
			 
			Ái Tử, địa danh nghe nhẹ nhàng, t́nh cảm, nhưng là một nơi tung 
			hoành của gió Lào hực lửa khi Mùa Hè, khi chướng lạnh khi Mùa Đông. 
			Vùng đất cằn cỗi nơi mà sinh vật cũng hiếm-hoi, củ khoai củ sắn cũng 
			tóp teo, mọc không nỗi v́ rể tranh dày đặc. Những phế liệu gỡ ra từ 
			phi trường dă chiến bên quốc lộ 1 đă được gom nhặt lại để xây dựng 
			nên một trại tù kiên cố. 
			 
			Ái Tử có những người dân thương anh em, những người lính Cộng Ḥa. 
			Người dân quá quen thuộc với màu áo hoa biển Thủy Quân Lục Chiến. 
			Qua bao năm binh lửa, những người trai đă hiến dâng tuổi trẻ để 
			chiến đấu bảo vệ quê hương bằng những trang sử anh hùng ngay trên 
			Quảng Trị thân yêu nầy. Cổ Thành Đinh Công Tráng, La Vang, Ngă ba 
			Long Hưng, Chợ Săi, Cầu Thạch Hăn, Chợ Săi là nơi người dân chứng 
			kiến biết bao máu xương chiến sĩ đă hy sinh cho đất nước. 
			 
			Những khi chiều về, cơn mệt mỏi ră rời qua một ngày rừng dài lê thê 
			v́ đói, anh em tù thường gặp những đội canh tác trung du xă Triệu 
			Tài, Triệu Hải, Triệu Ái. Họ đọc thấy những ư nghĩ và thấu rơ hoàn 
			cảnh tù đày, từ đó thường có những đồng thanh tương ứng. Họ dám nhịn 
			tiêu chuẩn để chuồi cho anh em tù vài lon gạo, bánh đường, gói thuốc 
			lào mà so với giá trị bây giờ, cao lương mỹ vị nào sánh kịp. Thành 
			Ṛm, PB/TQLC cứ mỗi lần đi rừng về, lén ghé qua vờ mượn nồi nấu ăn, 
			thực chất có chi mà nấu, nhưng bà con biết ư nên trong nồi luôn có 
			sẵn một vành cơm quanh hông và họ đă âm thầm tiếp sức rất lâu như 
			thế. Nam nữ thanh niên thường vây quanh nghe tôi thổi kèn những bản 
			nhạc quen thuộc, chiếc kèn harmonica đă giúp tôi những bữa sắn khoai 
			tuyệt vời. Thêm vào đó, Châu Kê với tài kể chuyện hấp dẫn đă cuốn 
			hút nam nữ thanh niên ngồi lại một cách mê mệt, quên cả dao, rựa, 
			cuốc, xẻng vất vung văi khắp nơi cùng với chỉ tiêu khai hoang phải 
			hoàn thành theo dự định. 
			 
			Năm 1977, toàn quốc rơi vào một cơn đói như một thảm nạn lịch sử. 
			Riêng tại miền Trung, nông dân lao nhọc cày sâu cuốc bẫm mà vẫn 
			không đủ sống. Các chỉ tiêu đề ra cố móc sức người dân đến tận cùng: 
			Làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm, muốn có ăn thêm làm luôn giờ 
			nghỉ, muốn có bền bỉ, làm cả thông tằm. Tuy thiếu ăn, thiếu mặc, 
			thiếu ngủ nhưng luôn chỉ một mục tiêu được tập trung cao nhất là sản 
			xuất. Trên mọi giấy tờ khi nào cũng khởi bằng những mỹ từ: Độc 
			lập-Tự do-Hạnh phúc. Phan Duyệt bất măn tột độ, quá căm phẫn một chế 
			độ chỉ biết nói một đường làm một nẻo. Một bữa trưa trước giờ kẻng 
			báo đi làm, anh đứng ra sân cờ trại, hai tay ôm chiếc cột đ̣i nhổ, 
			hạ lá cờ, miệng chửi rủa: 
			 
			- Hồ chí Minh mày ơi! Tại v́ mày và bè lũ mà đất nước ra nông nỗi 
			thế nầy. Dân làm ruộng mà không có gạo mà ăn, bọn mi đem lúa gạo đi 
			đâu để dân ta đói? Tụi bây nói tự do mà sao đi đâu cũng phải xin 
			phép? Tại sao ở đâu cũng toàn là nhà tù? Tụi bây nói hạnh phúc, tại 
			sao phải dồn dân đi kinh tế mới? Tại sao vợ phải xa chồng, cha xa 
			con v́ bị cải tạo không ngày về? Tại sao? 
			 
			Anh la hét kêu trời, van đất, xin hiểu cho những xót xa cho người 
			dân Việt sau cái ngày gọi là giải phóng. 
			 
			Vệ binh ra tay ngay, hai tên vạm vỡ là Mịch và Nịnh lộng lên như 
			những con thú vồ mồi. Tôi quay lưng lại, run lên theo từng tiếng hự, 
			uỵt, trời ơi, ôi chao... Chúng nó đánh, đá, đạp, chọi như đang dợt 
			một trái banh. Cả trại nín thở nh́n ra, h́nh dung chắc Phan Duyệt 
			không qua nỗi. 
			 
			Đánh đập dă man xong, vệ binh cho người khiêng vào khối. Duyệt như 
			một cái xác không hồn, tấm thân nhỏ bé đầy kín những vết bầm tím 
			quanh người. Bạn bè e ngại dạt ra, sợ liên lụy chính trị, chỉ liếc 
			nh́n và chỉ trỏ lao xao. Ngô Chi và tôi dang ṿng tay ra đỡ, Duyệt 
			ngă ḿnh trong cánh tay tôi. Anh nhắm mắt t́m giây phút b́nh yên, 
			tận hưởng dư vị hạnh phúc nồng ấm của những đứa con cùng trường Mẹ. 
			Cả ba chúng tôi như cùng được t́m về nguồn yêu thương có đủ trọn vẹn 
			những ân cần, lo lắng, ưu tư cho nhau bất chấp sự ngược ngạo thù hằn 
			của quân thù. Trong nỗi thương đau từ đáy sau nầy, niềm kiêu hănh 
			được làm người con trường Mẹ như một niềm tin bừng sáng, một sức 
			mạnh vô h́nh giúp sức đứng lên. 
			 
			Nh́n tấm thân người bạn, tôi quá nóng ruột, trong đầu miên man nghĩ 
			làm sao cứu sống cho bằng được. T́nh cờ lên rừng đốn củi, gặp niên 
			trưởng Lê Phước Ánh, tôi kể lể chuyện bạn ḿnh. Suy nghĩ giây lát, 
			anh Ánh bày mưu là cứ về trại tŕnh bày cho cán bộ rằng, tôi ở cùng 
			khóa sĩ quan trên Đà Lạt, chứng kiến anh bạn ḿnh thường có những 
			cơn đau, khi lên cơn, không được tỉnh táo. Về lại trại, tôi liền làm 
			theo như vậy. 
			 
			Từ sau đó, tiếp tục phiêu bạt theo vận nước điêu linh, Ngô Chi và 
			tôi phải xa Phan Duyệt để lên đường ra Bắc. Duyệt ở lại, biệt giam 
			suốt hai năm, cơ cực nhất là bọn Cộng Sản cho nhốt vào một chiếc 
			conex nhỏ mà chỉ được ở vị trí ngồi mà thôi chứ không nằm được. Lâu 
			ngày, Duyệt kiên tŕ dùng chiếc muỗng ăn cơm đào đất để có thể nằm 
			chuồi được. Từ chiếc lỗ nầy, anh mưu trí thoát ra ngoài được và lẩn 
			trốn về nhà. Khổ thay, gia đ́nh quá nghèo, sắn khoai không đủ huống 
			chi tiền bạc đang rối ren t́m đường thoát th́ vệ binh t́m đến bắt. 
			Anh bị dẫn độ về trại Ái Tử, tại đây, màn tra khảo đánh đập c̣n tàn 
			nhẫn hơn nhiều lần trước và bị giam dài hạn trong một nhà giam kiên 
			cố, vừa cùm vừa xiềng liên tục. Nhờ thiền định và ôn kinh Phật, anh 
			vượt qua gian nan nguy khốn của chốn hỏa ngục trần gian nầy. 
			 
			Ngày 22 Tháng Tư năm 1975, khi chọn đơn vị trong ngày măn khóa, Ngô 
			Chi t́nh nguyện vào sư đoàn Nhảy Dù, quyết chí làm trang sử riêng 
			cho đời ḿnh, anh thừa biết những thử thách nghiêm trọng đang chờ 
			đón v́ chiến tranh đang ở mức độ tàn khốc nhất. Tôi cố níu kéo, t́m 
			mọi cách đi tiếp chung một con đường. Anh xúc động nghe tôi nhắc lại 
			biến cố Mậu Thân ở Huế nơi các dũng sĩ cọp biển từ căn cứ Sóng Thần 
			ra giải tỏa và chiếm lại cố đô thân yêu. Qua hai mươi mốt ngày đêm 
			chiến đấu, giành lại từng tấc đất, nhiều anh lính chiến sĩ đă nằm 
			xuống cho đất mẹ quê ḿnh. Anh vui vẻ hoán chuyển cho Nguyễn Văn Mai 
			để cùng về đơn vị Thủy Quân Lục Chiến với nhau. Khi tŕnh diện bộ tư 
			lệnh, cả hai đứa đều dong tay đầu tiên t́nh nguyện ra tiểu đoàn 1 
			Quái Điểu cùng với Đặng Việt Luân, Nguyễn Văn Lư, Nguyễn Ngọc Vịnh, 
			Dương Thu Sơn để rồi có những giây phút sống chết cận kề bên nhau, 
			dễ đâu t́m được trong đời. Hơn hai năm trời sống với nhau trên đồi 
			4648, năm năm cùng một trại tù và trên mười năm cùng định cư vùng 
			Bay Area-Cali, cả một đoạn đường dài của đời người. Mỗi khi gặp 
			nhau, Chi đôi khi vui quá, làm bể mánh: 
			 
			- Hồi ở lính trong người mi luôn có một ông cha đạo và một ông thầy 
			chùa, bao nhiêu năm ở Mỹ, có c̣n được con người mày của ngày xưa. 
			 
			Ông già Tư Ngựa khóc thương Phan Duyệt c̣n sống, không phải ông thọ 
			ơn từng nhận điếu thuốc bánh đường, chút muối tiêu mà chỉ do một 
			động lực là đă sống, hiểu và biết thực chất của một con người đă 
			được đào tạo và trưởng thành như thế nào trước anh em và với quân 
			thù. Thời gian dài đă để lộ ra bản chất phi thường và ư chí sắt son 
			cũng như tư chất đạo đức với cuộc đời. Cũng từ Charlotte N. 
			Carolina, người bạn cựu tù Ái Tử B́nh Điền Lê Sĩ, nay là nhân viên 
			Pháp ngữ phi trường quốc tế, khi gọi phone hỏi thăm bạn tù cũ Ngô 
			Chi, đă khóc ̣a như một trẻ thơ: 
			 
			- Anh Huế à, sao qua Mỹ lâu rồi mà thằng Chi c̣n khổ thế, gọi khi 
			nào cũng nghe đang bận cắt cỏ, bỏ báo, làm vườn, viết báo. Những bài 
			viết của anh trên các báo cộng đồng rất chân t́nh, đượm đầy t́nh quê 
			đă thu hút biết bao tâm hồn người tha hương để gói ghém những ân 
			t́nh về quê-hương mỗi khi tai ương, mệnh trời t́m đến, và sau mười 
			lăm năm định cư nơi xứ người, tay trắng lại hoàn tay trắng! Tôi có 
			được xem h́nh nó trên Internet do anh chuyển, trông gương mặt sao 
			hốc hác tiều tụy quá. Chi nhỏ hơn tôi ba tuổi, nhưng trong trại cải 
			tạo nó là anh tôi, là đứa tiếp sức hà hơi cho tôi đó. Cực khổ với 
			ngày tháng mênh mông, tôi từng thất chí và toan làm bậy rồi, nhờ nó 
			ngăn cản và hỗ trợ tinh thần tôi mới bền vững ư chí. Tôi c̣n nhớ 
			những lời Ngô Chi nói: 
			 
			- Hăy cố gắng lên, anh bạn à! Theo thời gian, mọi sự rồi sẽ quen, 
			rồi sẽ qua hết. Cái ǵ mới bắt đầu cũng khó như vậy, dần dần trở 
			thành thường. Ḿnh c̣n trẻ, đường đời c̣n dài, c̣n biết bao nhiêu 
			người thân đang chờ. Phải sống, theo tôi, mọi sự sẽ đơn giản, nhẹ 
			nhàng. Mỗi lần nhắc đến, Lê Sĩ thường tâm sự: Gần sáu năm tù đày qua 
			đi, nhờ nghị lực của Ngô Chi và bạn bè được ví như thiên thần 
			Gabriel che chở để vượt sống, tôi thật biết ơn vô cùng. 
			 
			Nhân đọc được bài hồi kư Tháng Tư ra trường Hoa Biển do một cựu 
			thiếu sinh quân ở Cali đọc được và chuyển lại, từ Chicago, ILL. cựu 
			Đại Úy Bùi Bồn, tiểu đoàn phó TĐ1/TQLC đă t́m về Stockton-California 
			để thăm lại những sĩ quan của một góc chiến trường xưa. Vơ Phúc, Ngô 
			Chi, Hữu Huế, những chàng sĩ quan trẻ trung của đơn vị ngày nào đều 
			có mặt. Khi được nh́n lại vị chỉ huy đơn vị tài ba lẫm liệt của ḿnh 
			ngày trước, mọi người đều không khỏi xúc động khi nh́n thấy mái tóc 
			bạc phơ và dáng dấp chậm chạp của anh với những lời nhắn nhủ: 
			 
			- Ở thời điểm tổ quốc nguy biến mà các em vẫn hiên ngang ra chiến 
			trường trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, cho dù chỉ vỏn vẹn một tuần lễ, 
			nhưng tinh thần của các em rực sáng như những ánh sao. Đây là những 
			vết son trong quân sử và là niềm tự hào của quân trường nơi các em 
			xuất thân. Hăy nuôi dưỡng tinh thần và ư chí này... và lúc nào cũng 
			phải biết nhớ tới những người thương phế binh Việt Nam Cộng Ḥa, họ 
			đă chiến đấu và hy sinh cho đất nước nhưng đang hứng chịu những bất 
			hạnh và thiệt tḥi. 
			 
			
			Hoa Biển 
			Sacramento, Tháng Năm 2009 
			   |