Trận đánh Phụng Dư 1965

MX Hoàng Tích Thông

1. Tình hình chung

Sau khi quân đội làm cuộc đảo chánh lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, tình hình an ninh và chiến sự tại miền Nam Việt Nam đã xấu lại càng xấu hơn. Các tướng lãnh cầm đầu guồng máy cai trị không có khả năng chính trị mà còn quá tham vọng về ngôi vị lãnh đạo đã gây ra chia rẽ. Vấn đề phe nhóm kình chống nhau đã làm cho quân đội suy yếu hẵn đi, không còn tham gia tích cực vào các cuộc hành quân tiểu trừ Việt cộng như trước nữa. Thêm vào đó là việc hủy bỏ chính sách Ấp Chiến Lựợc có từ thời Ngô Đình Diệm để thay vào bằng Ấp Tân Sinh, khiến cho các vùng nông thôn rơi dần vào sự kiểm soát của Việt cộng ngày cũng như đêm. Đặc biệt là tại miền Trung, thuộc quân khu II tình hình thật là bi đát, chính quyền và quân đội chỉ còn kiểm soát được các quận lỵ và các làng xã nằm ven quốc lộ và tỉnh lộ. Các quận lỵ ở vùng cao nguyên như Dakto, Tân Cảnh đã bị đánh chiếm.

Trước tình hình đó, một Chiến đoàn của Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến, lực lượng Tổng trừ bị của Tổng Tham mưu, được lệnh tăng phái cho Sư đoàn 22 của Quân đoàn II mà Bộ chỉ huy đóng tại núi Bà Di, ngoại vi thành phố Quy Nhơn. Chiến đoàn vừa mới được thành lập theo nhu cầu nhiệm vụ chiến thuật, do Trung tá Nguyễn Thành Yên chỉ huy, gồm có 2 Tiểu đoàn tác chiến 1 và 2 cùng một Pháo đội 75 ly. Tiểu đoàn 1 do Thiếu tá Tôn Thất Soạn chỉ huy, và Tiểu đoàn 2 do Thiếu tá Hoàng Tích Thông đảm trách. Pháo đội 75 ly gồm 4 khẩu do Trung úy Đoàn Trọng Cảo làm Pháo đội trưởng.

Vào tháng 4/1965 Chiến đoàn di chuyển từ sân bay Tân Sơn Nhất ra Quy Nhơn bằng máy bay C.123. Sau đó tới Bộ tư lệnh Sư đoàn 22 bằng quân xa, nhận được lệnh xong Chiến đoàn tiếp tục di chuyển tới quận lỵ Bồng Sơn để chuẩn bị tham gia cuộc hành quân giải tỏa xã Tam Quan ở về phía Bắc quận lỵ.

2. Tình hình an ninh và địa thế trong khu vực hành quân

Quận lỵ Bồng Sơn nằm trên quốc lộ 1, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 6O cây số về phía Bắc. Đây là một quận lỵ khá trù phú và cũng là đầu mối con đường vào xã An Lão để đi lên cao nguyên Kon Tum, nên rất quan trọng về mặt chiến lược và chiến thuật. Trước năm 1954 nơi đây đã là vùng kiểm soát của Việt cộng mà quân đội Pháp đã không đánh chiếm được. Do ảnh hưởng của tình hình chính trị hỗn loạn sau 1963 nên vùng phía Bắc của Bình Định, tiếp giáp với tỉnh Quảng Ngãi thuộc quân khu I, lại càng bị Việt cộng lấn chiếm thêm. Chúng cô lập quận lỵ Bồng Sơn và cắt đứt hoàn toàn quốc lộ 1. Trong tình hình đó, Sư đoàn 22 cũng như Tiểu khu Bình Định hoàn toàn bất lực, vì không đủ lực lượng để mở các cuộc hành quân quy mô chống lại các đơn vị chủ lực của Sư đoàn 3 Sao Vàng (Việt cộng) hoạt động ở phía Bắc Bình Định, và các lực lượng địa phương, du kích ở khắp nơi nổi dậy. Địa thế vùng này rất hữu lợi cho Việt cộng trong việc phòng ngự và bất lợi cho ta trong việc phản công. Từ quận lỵ Bồng Sơn tới ấp An Đỗ (Đồi 1O) giáp ranh với quận Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi (Quân khu I), về phía Tây là đồi núi cao rừng dừa bát ngát. Về phía Đông là làng mạc được bao quanh bởi những vườn dừa kéo dài ra tận bờ biển. Tại xã Tam Quan, mục tiêu của cuộc hành quân, cũng nằm trên quốc lộ, cách quận lỵ Bồng Sơn khoảng 7-8 cây số, nằm gọn trong các hàng dừa cao bao quanh nên rất khó khăn cho việc tấn công. Từ xã Tam Quan theo quốc lộ 1 đến ấp An Đỗ (Đồi 1O) là đồng ruộng trống trải, nhất là về phía Tây. Chạy song song với quốc lộ 1 là con đường sắt nằm về phía Đông.

Theo tin tức tình báo ghi nhận thì lực lượng của Sư đoàn 3 Sao Vàng Việt cộng vẫn còn đang nằm ẩn ở rặng núi phía Tây để chờ thời cơ thuận lợi để chiếm quận lỵ Bồng Sơn, đang được các đơn vị của 1 Trung đoàn thuộc Sư đoàn 22 do Thiếu tá Long tự Thìn chỉ huy. Còn các lực lượng địa phương và du kích trấn giữ tại các xã ấp mà chúng chiếm được.

3.  Diễn tiến hành quân:

A. Nhiệm vụ

- Chiến đoàn Thủy Quân Lục Chiến sẽ giải tỏa xã Tam Quan, đồng thời quốc lộ 1 nối liền từ Bồng Sơn đến ấp An Đỗ - đèo Bình Đê giáp ranh quận Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi (Quân khu I).

- Duy trì an ninh và giúp quận thiết lập lại chính quyền xã Tam Quan và các ấp phụ thuộc.

B. Quan niệm hành quân

Chiến đoàn áp dụng chiến thuật trực thăng vận từ sân bay Bồng Sơn xuống bãi đáp phía Nam ấp An Đỗ và đánh chiếm Đồi 1O. Thiết lập căn cứ hỏa lực để yểm trợ tiến chiếm xã Tam Quan và giải tỏa quốc lộ 1 tới quận lỵ Bồng Sơn.

* Tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến

- Giai đoạn 1: Tiểu đoàn 2 xuất phát lúc 8 giờ sáng, xưœ dụng trực thăng H.21 đổ quân xuống bãi đáp Alfa cách ấp An Đỗ 1OO thước về phía Nam. Tiến chiếm ấp và đồi 1O.

- Giai đoạn 2: Dưới sự yểm trợ của Pháo binh, Tiểu đoàn tiến quân hai bên quốc lộ và thiết lộ, đánh chiếm mục tiêu là xã Tam Quan cách xa 2 cây số về phía Nam.

- Giai đoạn 3: Từ xã Tam quan, Tiểu đoàn tiếp tục tiến quân về phía Nam để giải tỏa quốc lộ 1 và bắt tay với đơn vị trú đóng tại Bồng Sơn.

- Giai đoạn 4: Nới rộng và bảo vệ vòng đai an ninh xã Tam Quan, trợ giúp chính quyền xã tái cũng cố.

* Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến

Đổ quân tiếp theo Tiểu đoàn 2 xuống bãi đáp Alfa.

- Giai đoạn 1: Tiến quân lục soát chung quanh ấp An Đỗ và chiếm giữ đèo Bình Đê (ranh giới giữa Quân khu I và Quân khu II).

- Giai đoạn 2: Thay thế Tiểu đoàn 2 chiếm giữ ấp và đồi 1O, thiết lập căn cứ hỏa lực bảo vệ Bộ chỉ huy Chiến đoàn và Pháo đội tại Đồi 1O. Thành phần trừ bị, sẵn sàng tiếp ứng cho Tiểu đoàn 2 khi tình hình cần đến.

* Bộ chỉ huy Chiến đoàn và Pháo đội Thủy Quân Lục Chiến:

- Giai đoạn 1: Cùng với Tiểu đoàn 1 đổ quân xuống bãi đáp Alfa. Pháo đội được trực thăng câu thẳng tới chân đồi 1O, sau đó di chuyển lên đỉnh đồi.

- Giai đoạn 2: Bộ Chỉ huy Chiến đoàn có thể lưu động theo các Tiểu đoàn khi tình hình đòi hỏi. Pháo đội sẵn sàng yểm trợ Tiểu đoàn 2 tiến chiếm xã Tam Quan và Tiểu đoàn 1 hoạt động trong vùng

C. Diễn tiến hành quân

*   Tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến

- Giai đoạn 1: một Đại đội dưới sự yểm trợ của trực thăng võ trang, đổ quân xuống bãi đáp Alfa lúc 8 giờ 15, vô sự, không có phản ứng của địch. Tiến chiếm bờ ấp An Đỗ và giữ an ninh bãi đáp. Các Đại đội còn lại tiếp tục đổ quân và hoàn tất lúc 12 giờ trưa. Sau đó Tiểu đoàn chiếm giữ ấp An Đỗ và đồi 1O an toàn.

- Giai đoạn 2: Tiểu đoàn 2 rời khu vực chiếm giữ lúc 3 giờ chiều, sau khi Tiểu đoàn 1 và Bộ Chỉ huy Chiến đoàn cùng Pháo đội hoàn tất đổ quân, để tiến về mục tiêu ấn định là xã Tam Quan. Tiểu đoàn tiến quân bằng hai cánh theo quốc lộ 1: Cánh A gồm Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và 2 Đại đội ở phía Đông. Cánh B với 2 Đại đội còn lại do Tiểu đoàn phó chỉ huy ở phía Tây. Trên đường tiến quân không gặp sức kháng cự nào của địch vì địa thế trống trải, quan sát dễ dàng. Nếu có chạm địch là lúc đột nhập vào xã Tam Quan, nhưng kết quả vô sự. Tình hình dân chúng, tuy có thưa thớt nhưng vẫn bình tĩnh làm ăn, đi lại không có veœ gì là sợ sệt. Tiểu đoàn tiến vào trung tâm xã lúc 4 giờ chiều, Bộ chỉ huy tạm đóng quân tại nhà hộ sinh (đã bỏ trống từ khi Việt cộng chiếm Tam Quan). Một Đại đội bố trí chung quanh để bảo vệ Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Ba Đại đội còn lại tiếp tục tiến quân về phía Nam. Đại đội 3 Thủy Quân Lục Chiến do Đại úy Nguyễn Năng Bảo chỉ huy, tiến quân dọc theo quốc lộ 1 về phía Bồng Sơn. Đại đội 4 do Đại uý Ngô Văn Định chỉ huy, tiến quân ở phía Tây quốc lộ và chiếm giữ một cao địa ở phía Tây Nam ấp Phụng Dư (cách Bộ chỉ huy Tiểu đoàn khoảng 7-8 trăm thước). Đại đội 1 do Đại úy Phạm Nhã chỉ huy tiến quân về phía sau ấp Phụng Dư và bố trí ngừng quân lúc 6 giờ chiều. Trên đường tiến quân, Đại đội 3 đã chạm địch ở phía Tây Nam ấp Phụng Dư khoảng 4OO thước, phải ngừng lại và tất cả được lệnh đóng quân đêm. Khi được báo cáo Đại đội 3 chạm địch thì Bộ chỉ huy Tiểu đoàn quyết định rời vị trí tới địa điểm đóng quân của Đại đội 1 lúc 6 giờ 3O chiều để quan sát tình hình. Riêng Đại đội 2 của Đại uý Hai (tức Hai Chùa) kiêm nhiệm chức vụ Tiểu đoàn phó đóng quân tại chỗ. Tình hình yên tĩnh cho tới quá nưœa đêm.

Lúc 1 giờ khuya, Việt cộng áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung. Khởi đầu là hàng loạt súng cối 82 và 6O ly được bắn tập trung vào trung tâm vị trí đóng quân. Một trái đạn mở màn đã nổ ngay đầu hồi nhà, gần ngay chỗ Tiểu đoàn trưởng và cố vấn Mỹ ngủ. Mảnh đạn làm xì hơi tấm nệm cao su lót nằm nhưng không gây thương tích cho cả hai. Tiếp đó súng của hai bên nổ ran, hướng tấn công chính của địch là từ phía Tây tới.

Ấp Phụng Dư là một ấp nhỏ, lèo tèo vài căn nhà lá nằm dưới các hàng dừa cao vút. Với địa thế không lấy gì làm thuận lợi cho việc phòng thủ nên Đại đội đã cố gắng làm một phòng tuyến với giao thông hào bao quanh, dù đã quá mệt nhọc. Do đó hàng đợt tấn công xung phong của địch đều liên tiếp bị đánh bật ra.

Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn đã liên lạc báo cáo với Bộ chỉ huy Chiến đoàn và điều chỉnh Pháo binh từ đồi 1O bắn yểm trợ. Có điều cần biết là súng 75 ly chỉ bắn xa tối đa là 9 cây số nên chỉ yểm trợ được ở phía Bắc vị trí mà thôi. Để bù vào chỗ thiếu sót đó, Bộ chỉ huy Tiểu đoàn ra lệnh cho Đại đội 4 ở phía Tây Nam xưœ dụng cối 6O ly và đại liên 3O bắn yểm trợ về sườn phía Tây của tuyến phòng ngự, và cũng là mũi tấn công chính của địch. Đồng thời cũng ra lệnh cho Đại đội 2 ở phía Bắc và Đại đội 3 ở phía Nam chuẩn bị di chuyển để tăng viện.

Cuộc tấn công của địch vào Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và Đại đội 1 vẫn tiếp diễn. Hỏa lực địch ngày càng mạnh, kể cả súng cối và hỏa tiễn B.4O, B.41 mà địch mới xử dụng ở chiến trường miền Nam, phòng tuyến ta có lúc muốn bị chọc thủng. Trong khi đó thì hỏa lực của ta chỉ bao gồm súng trường M.1, trung liên BAR, đại liên 3O, súng phóng lựu, súng cối 81, 6O và 57 ly không giật. Vào khoảng gần sáng thì Đại đội trưởng Đại đội 1 báo cáo là đạn gần cạn và yêu cầu Tiểu đoàn tăng cường Tiểu đội bảo vệ của Bộ Chỉ huy và khẩu đại liên 3O sang phòng tuyến phía Tây. Tình hình có veœ hơi nao núng mà cường độ tấn công của địch vẫn không sút giảm. Vào lúc rạng sáng thì Đại đội 3 của Đại úy Bảo tiến tới vị trí của Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn và Đại đội 1. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn ra lệnh cho Đại đội 3 cùng với Đại đội 1 phản công vượt qua phòng tuyến tiến đánh địch. Cùng lúc thì Đại đội 4 cũng được lệnh tiến quân vòng lên phía Tây Bắc để chận địch rút lui. Đại đội 2 ở phía Bắc tiến theo hướng Tây Nam để khóa chặt vòng vây.

Trước khí thế phản công mãnh liệt của ta, địch rút chạy, nhưng chỉ có một số ít thoát được, còn lại đa số chạy ẩn núp vào một ruộng mía ở trước phòng tuyến và một giao thông hào từ hướng Tây chạy tới mà chúng xưœ dụng để tiến sát vào vị trí đóng quân. Tất cả đã không chịu đầu hàng và đều bị hỏa lực của ta tiêu diệt gọn. Khi trời vừa sáng rõ thì trận đánh chấm dứt. Quan sát phòng tuyến thì có những thi thể Việt cộng nằm chết trước phòng tuyến khoảng 3-4 thước, còn dưới giao thông hào và ruộng mía thì địch nằm chết ngổn ngang.

Kết quả sau 5 tiếng đồng hồ chiến đấu dũng cảm, trước sức tấn công dồn dập của Trung đoàn thuộc Sư đoàn 3 Sao Vàng địch, Tiểu đoàn, đặc biệt là Đại đội 1 Thủy Quân Lục Chiến đã chiến thắng vô cùng xuất sắc, chỉ bằng hỏa lực của đơn vị và dưới sự yểm trợ duy nhất và ít hữu hiệu của Pháo binh Chiến đoàn vì tầm xa hạn chế và sức công phá không đủ mạnh. Một tiếng đồng hồ sau khi trận đánh chấm dứt thì Bộ Chỉ huy Chiến đoàn và Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến (-) cũng được điều động tới. Sau đó thì Tư lệnh Sư đoàn 22 khi đó là Chuẩn tướng Nguyễn Thanh Sằng tới thăm. Vào buổi chiều thì Tướng Nguyễn Hữu Có, Tư lệnh Quân đoàn II từ Pleiku xuống quan sát chiến trường rồi phát biểu là một đơn vị đóng quân ở một vị trí như vậy mà chiến thắng được địch quả là đáng khen.

Tổng kết trận đánh thì địch đã bị loại ngay tại trận khoảng 15O tên, bắt sống trên 1O tên, vũ khí tịch thu khoảng 1OO khẩu đủ loại, bao gồm cá nhân và cộng đồng. Về phía Tiểu đoàn thì sự thiệt hại hầu như quá nhẹ so với địch, điều mà không ai có thể tin được, chỉ có 4-5 binh sĩ bị tưœ thương, số bị thương khoảng 1O người, vũ khí bảo toàn.

Sau khi thu dọn chiến trường, các Đại đội được tiếp tế đạn dược đầy đủ, các binh sĩ bị thương và tưœ thương được đưa về bệnh viện Quy Nhơn thì Tiểu đoàn được phối trí lại để sẵn sàng ứng phó với một cuộc tấn công khác của địch để chúng lấy lại xác của những tên Việt cộng đã chết mà đồng bọn không mang đi được.

Bộ chỉ huy Tiểu đoàn vẫn trú đóng với Đại đội 1, nhưng được tăng cường phòng thủ bởi Đại đội 2. Còn hai Đại đội 3 và 4 di chuyển về vị trí cũ để chuẩn bị làm nhiệm vụ kế tiếp là giải tỏa quốc lộ về tới Bồng Sơn. Sau chiến thắng này, tinh thần binh sĩ lên rất cao. Đúng như dự đoán, gần nưœa đêm thì địch tấn công lại, nhưng lần này cường độ không mạnh lắm trước sự phòng thủ chặt chẽ của Tiểu đoàn. Khoảng 15-2O phút tấn công không kết quả, địch vội vã rút lui. Về sau theo tin tức ghi nhận được thì đợt tấn công sau địch chỉ có mục đích duy nhất là lấy lại xác đồng bọn, trong đó có một vài cán bộ chỉ huy cao cấp. Những ngày sau đó, Tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến hoàn tất nhiệm vụ kiểm soát xã Tam Quan và giải tỏa quốc lộ 1 từ quận lỵ Bồng Sơn tới đèo Bình Đê và duy trì an ninh yểm trợ chính quyền cũng cố lại cơ sở xã ấp. Từ đó cho đến ngày Chiến đoàn rời khỏi khu vực hành quân thì không còn một trận đánh quy mô nào xảy ra nữa.

Nhận định

Sau khi trận đánh kết thúc, kiểm điểm lại thì thấy sự chiến thắng của ta rất đáng khích lệ, vì sự thiệt hại của Tiểu đoàn rất nhẹ, trong khi địch bị thiệt hại nặng nề. Trung đoàn Sao Vàng của Việt cộng gần như tê liệt, phải mất một thời gian dài mới hoạt động lại được. Sự chiến thắng này không những làm cho tinh thần chiến đấu của quân nhân trong binh chủng lên cao mà còn tạo cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa được tin tưởng hơn trong lúc tình hình an ninh của toàn lãnh thổ miền Nam đang ở trong tình trạng bết bát qua các trận: Bình Giả (thuộc tỉnh Phước Tuy - Quân khu 3) vào cuối năm 1964, trận chiếm lại Tân Cảnh đưa tới việc mất quận lỵ Dakto, đồn Đức Cơ thuộc Lực Lượng Đặc Biệt ở biên giới Việt Miên, quận Phú Bổn bị bao vây cô lập và 2 tỉnh lộ: 19 nối liền Pleku với Quy Nhơn, 22 nối liền Ban Mê Thuột với Nha Trang bị cắt đứt... Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói chung và Tiểu đoàn 2 nói riêng đều đã có mặt trong các cuộc hành quân giải tỏa đó.

Một yếu tố không kém phần quan trọng đã đem lại sự chiến thắng là tình báo địch theo dõi hoạt động của Tiểu đoàn không chính xác. Chúng yên trí là chỉ có một Đại đội đóng quân đêm ở ấp Phụng Dư, chứ không theo dõi lúc Bộ chỉ huy Tiểu đoàn di chuyển tới vị trí của Đại đội 1 khi nhận được báo cáo Đại đội 3 đã chạm địch. Do đó hệ thống phòng thủ của Đại đội 1 đã được thay đổi, chủ lực được chuyển qua tuyến phòng ngự ở mặt Tây, nơi có địa hình thuận lợi cho việc tấn công. Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn và các thành phần yểm trợ như Trung đội súng cối 81 ly, Tiểu đội bảo vệ, Tiểu đội Truyền tin bố trí về phía Đông. Khi địch mở cuộc tấn công, đúng như dự đoán, chúng đã gặp ngay sức kháng cự mãnh liệt của ta, dù đã tung ra nhiều đợt xung phong 4-5 tiếng đồng hồ. Ngoài ra địch cũng không ngờ các Đại đội khác trong kế hoạch phối trí yểm trợ hổ tương của Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn kéo về tiếp ứng, và Đại đội 1 đã xữ dụng súng cối 6O ly và đại liên 3O bắn vào sườn địch rồi cùng với Đại đội 2 khóa chặt đường rút lui về phía Tây của địch, khiến chúng tháo chạy không kịp mang theo đồng bọn chết và bị thương. Một số lớn bị bao vây mà không chịu đầu hàng đã bị hỏa lực ta tiêu diệt.

Qua chiến thắng này cũng như những cuộc đụng độ sau đó, trận đánh tại ấp Phụng Dư xã Tam Quan đầu năm 1965 là một chiến tích đẹp nhất của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói chung cũng như của Tiểu đoàn 2 nói riêng. Vì vậy Tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đã được địch gắn cho danh hiệu Trâu Điên, vì mỗi lần đụng độ là Tiểu đoàn chỉ có tiến tới, bất kể hỏa lực và bố trí phòng ngự kiên cố của địch. Nói một cách khác là trong thời gian phục vụ cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tôi thấy Tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến chưa lần nào chiến bại trước quân thù cả. Riêng cá nhân tôi, trải qua bao nhiêu chiến trận, từ cấp Đại đội cho tới Lữ đoàn, tôi rất hài lòng với trận đánh Phụng Dư của Tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến và đó cũng là kỷ niệm đẹp, oai hùng nhất trong cuộc đời quân ngũ của tôi. Xin dành một phút để tưởng nhớ tới những chiến binh đã hy sinh anh dũng trong chiến trận đó.