TĐ4/TQLC -
Đêm Hạ Lào ! Đêm sao dài quá!
MX Trần Vệ
Suốt cuộc chiến ở Cambodia, từ lúc vượt biên giới đổ bộ ở Neak-Luong
cho đến khi tiến chiếm Prey-Veng, rồi về đóng quân ở Ban-Nam, Tiểu
đoàn 4 Ḱnh Ngư như dẫm chân hết khu phía Đông của sông Mekong. Lúc
bấy giờ tôi giữ chức vụ Đại đội trưởng Đại đội 4. Cuối cuộc chiến,
Tiểu đoàn 4 được lệnh hành quân lục soát dọc bờ sông Mekong hướng về
phía Nam. Trong một trận chiếm mục tiêu ở cuối làng th́ tôi bị
thương v́ mảnh lựu đạn gài. Tôi được tải thương về Hồng Ngự, sau đó
chuyển về hậu cứ Vũng Tàu. V́ vết thương nhẹ nên chỉ một tuần sau
tôi được xuất viện. Sống cuộc đời lính, đôi khi cái rủi lại là cái
may. Tôi được nghĩ dưỡng thương gần 3 tuần lễ, phất phơ lên xuống
Vũng Tàu - Sài G̣n thăm gia đ́nh, mấy khi có được một cái phép ngon
lành như thế trong khi Tiểu đoàn phải đi hành quân xa.
Hôm ấy, trong khi đang thưởng thức gió biển mát mẻ ở Băi Sau Vũng
Tàu th́ tôi được Đại úy Đặng Văn Học, chỉ huy hậu cứ Tiểu đoàn 4
Thủy Quân Lục Chiến chạy ra báo Tiểu đoàn đă về hậu cứ. Sau một ngụm
bia, Học vỗ vai tôi:
- Ông già dẫn Tiểu đoàn về rồi, ông cho gọi mày
gấp.
Tôi vội hỏi:
- Ổng có khỏe không, Tiểu đoàn ḿnh có khá
không?.
Học cười ha hả:
- Ông già kỳ này đen thui à, có lẽ bắt màu
của mấy em Cambodia, ông hỏi bộ mày bị mấy em Vũng Tàu cầm chân sao
không thấy ra hành quân ?.
Tôi cũng cười:
- Ḿnh là thương binh mà.
Ông già là Thiếu tá Vơ Kỉnh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4 Thủy Quân
Lục Chiến. Ông tuy lớn tuổi (hồi ấy đă gần 5O trong khi bọn tôi chỉ
từ 25 đến 3O tuổi) nhưng rất trẻ trung. Chúng tôi hay đùa ông già
chịu chơi, khi hành quân th́ rất gan dạ, khi về hậu cứ hễ chúng tôi
đâu th́ ông đó. Ngoài ra ông có ngón nhảy Tango, đưa em “ter” rất
sát, chúng tôi cố học măi nhưng không theo kịp.
Không khí ở Tiểu đoàn hôm nay có vẻ nhộn nhịp, lính tráng ra vào tấp
nập trông như ngày Tết. Tôi bước vào Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn th́ thấy
ông già đang đứng nói chuyện với các sĩ quan Đại đội trưởng. Tôi
chưa kịp chào th́ ông đă đưa tay ngoắc:
- À thằng Vệ đây rồi ! Sao,
đă chưa mày, có em nào mới không ?.
Tôi chào ông xong, xoa hai tay:
- Thưa Đại bàng đâu có, bị thương phải dưỡng bệnh suốt mấy tuần.
Ḥa
râu tức Nguyễn Đăng Ḥa, Tiểu đoàn phó, đứng bên cạnh cười nói:
- Đâu
mày đưa vết thương tao xem.
Tôi vén ống quần lên, chỉ thấy mấy vết
lấm chấm nhỏ do mảnh đạn đă lành. Từ Đức Thọ, Đại đội trưởng Đại đội
3 xuưt xoa:
- Chà, vết thương nặng dữ, xin ông già cho Vũng Tàu nghĩ
thêm hai tháng nữa !.
Tất cả đều cười ồ, tôi không biết làm sao hơn
đành cười theo. Đợi cho tất cả dứt tiếng cười, ông già lấy giọng
nghiêm:
- Thôi được rồi, kỳ này cho chú về giữ Trưởng ban 3 thay cho
Đại úy Trần Văn Chí. Đại úy Chí coi Đại đội chỉ huy, tôi đă ra lệnh
cho Ban 1 rồi, ngày mai bàn giao.
Tôi hỏi:
- Thưa Đại bàng, kỳ này
Tiểu đoàn nghỉ lâu không?.
Ông già lắc đầu:
- Đâu có nghỉ ǵ, Tiểu
đoàn chỉ về hậu cứ 2 tuần để bổ sung, chuẩn bị hành quân. Tôi đă ra
lệnh cấm trại 1OO% rồi.
Thế là Tiểu đoàn chuẩn bị quân số và vũ khí. Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn và
các Đại đội làm việc suốt ngày. Hai tuần sau, Tiểu đoàn được không
tải ra Huế. Thời tiết của Huế đang vào mùa nắng, mà cái nắng ở Huế
th́ rất gắt. Tiểu đoàn lại được di chuyển bằng quân xa ra Đông Hà,
một quận ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Lệnh hành quân kỳ này rất bí mật
, chúng tôi cũng chưa biết đi hành quân ở vùng nào, lại được lệnh
huấn luyện binh sĩ đổ bộ cho nên có người đoán sẽ đổ bộ miền Bắc. Do
đó ai cũng bàn tán xôn xao, vẻ mặt người nào cũng lộ vẻ nôn nao.
Thủy Quân Lục Chiến là lực lượng Tổng trừ bị, đi khắp 4 vùng chiến
thuật, nếu kỳ này có đổ bộ miền Bắc th́ cũng không sao, lại thêm một
chuyến vui chơi mà thôi. Chúng tôi lại nói chuyện tiếu lâm về miền
Bắc, nào là dịp này được làm quen gái Bắc, có người lại nói sẽ đi 36
phố phường...
Hôm ấy tôi đang ngồi thảo kế hoạch huấn luyện đợt 2 th́ có lệnh lên
Lữ đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến lănh bản đồ. Tôi sắp bản đồ th́ thấy
trải dài theo quốc lộ 9 lên Khe Sanh, Lao Bảo và một lô bản đồ qua
đến Tchépone thuộc Nam Lào, dọc theo sông Tchépone. Tuy nhiên vẫn
chưa có lệnh hành quân, chỉ nhận được lệnh ngày N giờ G sẽ di chuyển
bằng quân xa lên Khe Sanh.
Con đường quốc lộ mang số 9 do Pháp làm hồi trước, trải đá chạy dọc
theo các triền núi, qua thung lũng, v́ đất núi nên khi xe chạy bụi
đỏ mịt mù, chúng tôi phải lấy khăn quấn quanh mặt, nhưng khi tới nơi
th́ ai cũng lấm lem hết. Tiểu đoàn đến Khe Sanh th́ trời sắp tối,
được trú ngụ ở một căn cứ cũ của quân lực Hoa Kỳ để lại. Khe Sanh là
một làng nhỏ cách Lao Bảo giáp giới với Lào khoảng 6-7 cây số. ở đây
có 2 đồn điền cà phê của người Pháp để lại, giờ đây bỏ hoang v́ chủ
đă về nước. Vào năm 1968, Khe Sanh nổi tiếng v́ những trận đánh giữa
quân lực Hoa Kỳ và Bắc Việt. Nay quân đội Mỹ đă rút khỏi Khe Sanh,
để lại những căn cứ hoang tàn đổ nát. Sau khi đi họp với Tiểu đoàn
trưởng ở Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 147 tôi được biết lực lượng Thủy Quân
Lục Chiến làm trừ bị cho Sư đoàn 1 Bộ binh đang tiến chiếm Tchépone.
Kế hoạch của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa là tiến chiếm Tchépone, tiêu
diệt địch và rút lui chứ không chiếm đóng. Nổ lực chính là Sư đoàn 1
Bộ binh, Dù và Biệt Động Quân án ngữ hướng Tây và Tây Bắc. V́ là lực
lượng trừ bị cho nên trong giai đoạn đầu chúng tôi được thong dong ở
Khe Sanh tắm suối và nếm những trái cà phê đỏ chín nặng trĩu ở các
cành cây cà phê. Tuy nhiên với chức vụ trưởng Ban 3 Tiểu đoàn, mỗi
sáng tôi phải đi bay C&C quan sát, khi th́ đi máy bay của Không quân
Việt Nam, khi đi máy bay Mỹ. Tôi và Chính rỗ (người lính Truyền tin
mang máy cho tôi) sáng nào cũng lên Lữ đoàn chờ máy bay rồi đến gần
tối mới trở về Tiểu đoàn. Cũng nhờ đi bay với cố vấn Mỹ, tôi mới rơ
lối đánh giặc của anh mũi lơ. Rất chán! Theo hiệp ước không biết kư
ở đâu, máy bay quan sát của Mỹ chỉ bay đến dăy núi Koroc mà thôi,
tức là chỉ qua khỏi Lao Bảo độ vài cây số. Tôi cự nự với thằng cố
vấn hoài:
- Máy bay đến đây th́ thấy cái đếch ǵ ? Việt cộng nó ở
tuốt bên kia!.
Thằng Mỹ cười hề hề:
- Sorry, tao nhận được lệnh
không được qua bên đó .
Chỉ có máy bay của Không quân ta, tôi mới
thoải mái để quan sát. Lúc ngồi trên máy bay tôi không thấy ngán
nhưng về rồi nghĩ lại thấy ớn da gà. Bởi v́ rừng Hạ Lào rậm rạp, cây
cối xanh dờn, bay chập chờn giữa cảnh trời bao la chẳng khác nào máy
bay giấy, chỉ một phát pḥng không của Việt cộng là rồi đời. Phe ta
lại chơi bạo, hễ thấy pḥng không bắn lên th́ đảo xuống để quan sát
cho rơ.
Sáng hôm đó, tôi lên Bộ Chỉ huy Lữ đoàn th́ được nghe tin một Tiểu
đoàn của Sư đoàn 1 Bộ binh do Thiếu tá Trần Ngọc Huế, khóa 18 Vơ bị
Đà Lạt chỉ huy đă đặt chân lên Tchépone và đang quần với địch. Trong
khi đó Lữ đoàn 2 Nhảy Dù của Đại tá Thọ đụng mạnh với một Sư đoàn
Cộng sản Bắc Việt. Tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân ở Tây Bắc chạm địch
cấp Trung đoàn. Tôi nhận được lệnh: Lữ đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến
gồm các Tiểu đoàn 4, 2 và 7 chuẩn bị trực thăng vận cùng Bộ Chỉ huy
Lữ đoàn và Tiểu đoàn 2 Pháo binh đến án ngữ cho các đơn vị Bộ binh,
Biệt Động Quân và Nhảy Dù rút quân. Lại được tin Bộ Tư lệnh Sư đoàn
Thủy Quân Lục Chiến sẽ từ Sài G̣n không vận ra đóng bản doanh tại
Khe Sanh để chỉ huy hành quân. Ngoài ra c̣n có Bộ Tư lệnh Tiền
phương của Quân đoàn 1, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, Sư đoàn Dù,
Liên đoàn 21 Biệt Động Quân và Lữ đoàn 1 Thiết kÿ.
Lực lượng đổ quân của Thủy Quân Lục Chiến do Đại tá Hoàng Tích
Thông, Lữ đoàn trưởng chỉ huy với thành phần như sau:
- Tiểu đoàn 2 Pháo binh do Thiếu tá Đặng Bá Đạt làm Tiểu đoàn
trưởng.
- Tiểu đoàn 2 Trâu Điên của Thiếu tá Nguyễn Xuân Phúc.
- Tiểu đoàn 4 Ḱnh Ngư của Thiếu tá Vơ Kỉnh.
- Tiểu đoàn 7 của Thiếu tá Phạm Nhă.
Các đợt đổ quân đều tiến hành tốt đẹp, có lẽ địch chưa phát hiện
được vị trí của ta. Sau khi đáp xuống đồi 55O của Bộ Chỉ huy Lữ đoàn
147 Thủy Quân Lục Chiến, Tiểu đoàn 4 Ḱnh Ngư chúng tôi tiến về
hướng Đông Bắc. Trên đường di chuyển chúng tôi phát hiện được nhiều
đường ṃn chằng chịt. Nói là đường ṃn chứ thật ra là những con
đường đất đỏ lớn cỡ xe Molotova của quân Bắc Việt di chuyển. Đồng
thời đường lên các núi cao đều có bậc cấp để đi cho dễ dàng, chứng
tỏ Cộng sản Bắc Việt thiết lập để Bộ đội và dân công dùng. Các nơi
đóng quân của Thủy Quân Lục Chiến vẫn yên tĩnh, nhưng qua thông tin
của Lữ đoàn chúng tôi được biết Sư đoàn 1 Bộ binh và Thiết kÿ bị Bắc
Việt truy kích nặng nề khi rút lui theo đường số 9. Trong khi đó Bộ
Chỉ huy Lữ đoàn Dù của Đại tá Thọ bị địch tràn ngập, đồng thời Tiểu
đoàn 21 Biệt Động Quân cũng bị tấn công dữ dội. Bộ Tư lệnh Tiền
phương phải xin B.52 trải thảm để ngăn các đợt tiến quân của Cộng
sản Bắc Việt.
Sáng hôm sau, khi Tiểu đoàn 2 Pháo binh khởi sự bắn yểm trợ và các
điểm nghi ngờ th́ đại pháo 13O ly của địch cũng hướng về phía ta.
Đạn rớt trên các triền núi của Bộ Chỉ huy Lữ đoàn, địch đă đánh hơi
được các điểm đóng quân của Thủy Quân Lục Chiến. Tôi đang liên lạc
với Lữ đoàn th́ nghe trên đầu có tiếng máy bay, tôi vội qua tần số
không trợ để liên lạc th́ biết đó là máy bay quan sát của Sư đoàn
Thủy Quân Lục Chiến. Tôi vội báo là đừng bay lên hướng Bắc v́ hôm
qua khi đổ quân tôi thấy pḥng không địch ở hướng đó bắn lên. Nhưng
đă trễ, máy bay đă vượt qua đầu chúng tôi, chưa kịp quay trở lại th́
pḥng không đă bắn lên rồi. Nh́n chiếc máy bay lượn qua lượn lại
giữa những lằn đạn, tôi lắc đầu ái ngại cho số phận của các đồng
đội. Quả nhiên qua tần số không trợ, tôi biết tin Trung úy Pháo binh
(tôi không c̣n nhớ tên) bị thương. Cũng may máy bay đă trở lại kịp
và bay về hướng Khe Sanh.
Tôi đang c̣n nh́n theo chiếc L.19 th́ âm thoại viên đến báo:
- Tŕnh
Đại úy, Trung úy Thọ, Đại đội trưởng Đại đội 3 muốn gặp.
Tôi cầm
máy hỏi:
- Cái ǵ đó Tango ?.
- Tŕnh Vũng Tàu, con đầu của tôi quan
sát thấy địch, xin Vũng Tàu cho mấy tô phở.
- OK, muốn ăn phở ở đâu
cho biết.
Tôi gọi pháo bắn vào các điểm Thọ vừa cho, phía bên trái
Đức, Đại đội trưởng Đại đội 4 cũng xin pháo. Tôi chuyển bớt pháo qua
điểm Đại đội 4 xin. Các đợt pháo của ta vừa ngưng th́ có tiếng “tong
tong” qua đầu, tôi la lên “Pháo kích” để tất cả chui hầm. Rồi 2
tiếng nổ ở sau lưng chúng tôi, tôi nh́n qua đồi 55O của Bộ Chỉ huy
Lữ đoàn 147 thấy 2 cột khói bốc lên. Địch đă phát hiện điểm pháo của
ta. Suốt ngày hôm đó, ta và địch đều dùng pháo để thăm ḍ nhau. Sau
này tôi được biết pháo địch đặt trong ḷng núi, ở các hốc đá lớn nên
rất khó phát hiện và tiêu diệt. C̣n căn cứ hỏa lực của ta th́ trống
trải, lại ở trên cao nên rất dễ thấy mà c̣n không di chuyển được nên
càng dễ ăn pháo địch. Rút kinh nghiệm này, trong các trận đánh sau
như Quảng Trị Bộ Chỉ huy Lữ đoàn không đóng chung với Pháo đội nữa
mà để Pháo đội ở riêng và di chuyển khi cần. Trời tờ mờ sáng th́ Đại
đội 3 báo cáo địch đă tiến sát, tôi cho gọi Pháo và báo cáo với Đại
bàng Kỉnh. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh tác xạ và yểm trợ 81 ly cho Đại
đội 3. Vừa nói chuyện với Thọ xong th́ Đức báo cáo nghe tiếng động
cơ nổ, tôi vội la lên trong máy:
- Coi chừng chiến xa địch đó, cho
ông già 72 sẵn sàng. Tiếng Đức trả lời:
- Vũng Tàu yên tâm, chúng
tôi đă sẵn sàng.
Nói xong th́ tôi nghe tiếng M.72 nổ rầm rầm từ
phía Đại đội 4. Tiểu đoàn trưởng bảo tôi xin pháo thêm và nhắc:
- Vũng Tàu nhớ kéo pháo sát một chút.
Pháo binh bắn rất chính xác và
gần, nhiều lúc mảnh đạn c̣n văng đến chỗ chúng tôi nữa.
Sau đợt pháo thứ hai th́ Đức báo cáo với giọng hổn hển:
- Vũng Tàu
ơi! tôi hạ được một con cua rồi.
- OK, tôi báo Đại bàng thưởng cho.
Tôi tŕnh lại với Tiểu đoàn trưởng và báo cáo về Lữ đoàn. Ta và địch
quần nhau suốt ngày, Đức hạ thêm 2 chiến xa nữa, trong khi đó bên
Thọ địch bám rất sát. Đến 5 giờ chiều th́ t́nh h́nh bắt đầu găng,
bất chấp pháo binh của ta, chiến xa địch cùng bộ binh của chúng tấn
công liên hồi nhưng bên ta đều chận đứng được. Phía Bộ Chỉ huy Lữ
đoàn bị pháo kích liên miên, ta bị hỏng mất 2 khẩu 1O5 ly. Tôi và
Chính rỗ cả ngày ngồi dưới hố, mà cái hố quá chật nên chân chúng tôi
phải đan lấy nhau. Trong tiếng đạn nổ của súng thường và pháo, tôi
bỗng nghe hai ba tiếng nổ rất gần, h́nh như ngay trên đầu của Đại
đội 3. Tôi check lại với Bộ Chỉ huy Lữ đoàn để xác nhận pháo của ta
hay địch th́ vừa lúc đó có tiếng nổ dồn dập trên đầu chúng tôi, bên
trái rồi bên phải. Tôi la lên trong máy:
- Đại bàng Tango, đừng bắn
trên đầu chúng tôi, ngưng tác xạ đi.
Tiểu đoàn trưởng Vơ Kỉnh cũng
la bên tôi:
- Vũng Tàu, mày bảo Pháo binh ngưng bắn ngay!. Trưởng
ban 3 Lữ đoàn cũng la lên trong máy:
- Tao đă ngưng rồi, pháo địch
đó!.
Thôi rồi, đúng là pháo 13O ly của địch với tiếng nổ ầm ầm chát
chúa trên đầu chúng tôi, nghe long cả óc. Bỗng tôi nghe bên tai:
- Đại úy ơi, em bị thương rồi!.
Tôi vội quay lại Chính rỗ máu me đầy
ḿnh, văng cả lên người tôi, h́nh như chân nó cũng bị mà chân hai
đứa lại đan nhau nên tôi không rơ ḿnh có bị hay không ? Trong khi
đó th́ Đại đội 3 và 4 đều bị địch tràn lên, ta và địch đang bắn tay
đôi, gần nhau trong gang tấc. Một loạt 13O ly nữa lại nổ, t́nh h́nh
không tốt rồi. Chúng tôi được lệnh “cho chó ăn chè” nghĩa là rút lui
về Bộ chỉ huy Lữ đoàn. Trong bóng tối, vừa cố né mảnh đạn pháo tôi
vừa th́ thào bên tai Chính rỗ:
- Mày chạy được không, ta rút đi
thôi.
Chính rỗ lắc đầu:
- Đại úy đi đi, em không đi được nữa.
Tôi
cố kéo Chính rỗ lên khỏi hố nhưng không được, vừa lúc đó pháo lại nổ
liên tục, cuối cùng đành xách cái máy truyền tin vọt đi, để nó ở
lại. Đến đây, tưởng cũng nên để vài hàng nói về Chính rỗ, người giữ
máy truyền tin của tôi, kẻ đă ở lại vĩnh viễn tại Hạ Lào:
Chính rỗ con nhà nghèo, cha mất sớm, mẹ phải đi bán chè nuôi con cho
nên Chính thất học. Nó đi bụi đời rất sớm nhưng rất có hiếu với mẹ,
kiếm được đồng nào là đưa về cho mẹ. Đến năm 18 tuổi Chính đăng lính
Thủy Quân Lục Chiến, vào lính nó lại rất kỹ luật, thi hành lệnh cấp
trên răm rắp nên được thương cho đi học Truyền tin. Sau khóa Truyền
tin nó về mang máy cho tôi và thường tâm sự là mẹ già rồi nó phải
nuôi mẹ nên không lấy vợ, dù có con nhỏ bán nước mía ở đầu chợ Vũng
Tàu rất thương nó. Nó bảo:
- Đại úy à, đời lính nay đây mai đó, lấy
vợ thêm khổ.
Tôi an ủi:
- Khổ ǵ mày, vậy mày để con gái ở giá th́
họ không khổ à ?.
Nó cười hề hề:
- Đại úy nói cũng có lư, phen này
về, em đem con nhỏ ra mắt bà già xem sao.
Thôi rồi, Chính rỗ ơi! Đă
muộn rồi! mày không c̣n cơ hội để đạt giấc mộng cỏn con đó nữa. Thôi
hăy an giấc ngàn thu ở xứ Hạ Lào xa lạ chết chóc này. Và cuộc chiến
c̣n kéo dài th́ rồi con gái họ cũng ở giá mà thôi !
Lên đến Bộ Chỉ huy Lữ đoàn, cảnh tượng c̣n thương tâm hơn: các khẩu
pháo bị hỏng nằm nghiêng ngă, khắp nơi bề bộn những thùng đạn và bao
cát. Tôi vào hầm chỉ huy nhận lệnh th́ thấy toàn thể Bộ Chỉ huy cũng
đă chuẩn bị gọn gàng. Đại tá Lữ đoàn trưởng nói rất b́nh tỉnh:
- Ta
chỉ án ngữ cho các đơn vị bạn rút, giờ ta cũng rút về thôi, các anh
gắng chu toàn con cái.
Tôi bước ra cửa hầm th́ gặp Chuẩn úy Phạm
Hiệp Sĩ, nó mừng rỡ ôm chầm lấy tôi. Sĩ học cùng khóa 19 với tôi
nhưng v́ kỹ luật nên bị ra trường sớm với cấp bậc Trung sĩ, mặc dù
nó học rất giỏi. Ra trường rôi cũng vẫn cái tính ngang tàng đi hai
ba binh chủng, sau cùng về Thủy Quân Lục Chiến và vào Tiểu đoàn 4.
Ông già thấy Sĩ và tôi học cùng khóa nên cho nó về Đại đội 4 của tôi
hồi tôi chưa bị thương. Vẫn chứng nào tật ấy, đi hành quân th́ rất
giỏi, mà về hậu cứ th́ lại say sưa, vô kỹ luật. Tôi cho Sĩ giữ chức
vụ Trung đội trưởng, trong khi Sĩ chỉ mang cấp bậc Trung sĩ. Cuối
cùng tôi xin ông già cho Sĩ đi học khóa Sĩ quan và đă ra Chuẩn úy về
Đại đội Viễn thám. Sau cái bắt tay, tôi bảo Sĩ:
- T́nh h́nh này chắc
phải rút quân, và có lẽ sẽ lộn xộn đó, mày nhớ chạy theo hướng
Koroc, có đơn vị bạn đón ở đó. (Theo kế hoạch rút lui, Tiểu đoàn 3
Sói Biển của Thiếu tá Nguyễn Năng Bảo để nằm ở dăy Koroc để đón phe
ta với sự yểm trợ của Tiểu đoàn 3 Pháo binh của Thiếu tá Trần Thiện
Hiệu).
Tôi chưa kịp nói ǵ nhiều th́ pháo địch đă tới tấp nổ trên đồi. Lính
ở đâu ùn ùn kéo tới làm tôi cũng dạt theo. Chiến xa địch cũng bám
sau lưng ta để tránh B.52 v́ lúc đó bom nổ rất gần. Trời tối nên
chẳng thấy đường, nhiều lúc ngă lăn, tôi bị trượt theo sườn đồi. Đến
khi xuống tới đất bằng mới thấy toàn là rừng cây rậm rạp, cây nào
cây nấy to cả người ôm. Lúc bấy giờ binh sĩ ta rất đông, cả hơn trăm
người, tôi không nhận diện được đơn vị nào. Kẻ nói người la inh ỏi,
người bảo đi hướng này, kẻ chỉ đi lối kia, không ai nghe ai cả. Thấy
thế tôi la lớn lên:
- Tôi là Đại úy Trần Vệ, trưởng Ban 3 Tiểu đoàn 4
đây, tất cả hăy im lặng để nghe tôi nói.
Tất cả đều im, tôi dặn ḍ:
- V́ trời tối , tất cả hăy bám theo nhau mà đi, không được nói
chuyện. Tuyệt đối giữ im lặng khi di chuyển, không được bắn bừa băi.
Ai có máy truyền tin lên đây đi bên cạnh tôi.
Hai ba người có máy
truyền tin chạy lên , vừa lúc đó tôi nghe có tiếng nói bên cạnh:
- Chết rồi, tay Đại úy bị thương, đưa em băng cho.
Tôi vội nh́n lại
bàn tay trái của ḿnh mới biết mảnh đạn ở ngón áp út nên vội đưa tay
cho anh lính y tá băng giúp . Có tiếng nổ phía sau, tôi ra lệnh đoàn
quân di chuyển, nhưng không thấy ai nhúc nhích cả, có lẽ người đứng
đầu không biết đi hướng nào và đi về đâu. Tôi đành lên dẫn đầu đoàn
quân, dùng địa bàn định hướng đi về phía Koroc. Cứ thế chúng tôi lần
bước trong đêm, lúc đó khoảng 9 giờ tối. Chúng tôi như đoàn quân ma,
chập chờn im lặng lên đồi, vượt suối. Đi độ một tiếng đồng hồ, vừa
lên đỉnh một ngọn đồi tôi bỗng nghe có tiếng xôn xao ở đồi bên phải.
Tôi cho tất cả dừng lại bố trí cẩn thận, một người mang máy ḅ lại
cạnh tôi:
- Đại úy, có người nói trong máy. Tôi cầm ống liên hợp
thử lên giọng:
- Cọp Biển, Cọp Biển! Đây Rằn ri gọi.... Bỗng bên
kia trả lời:
- Có phải Vẻ Vang đó không ?.
Tôi nhận ra tiếng của
Trần Văn Hợp, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 2 Trâu Điên, là bạn khóa 19 Đà
Lạt nên vội lên tiếng:
- Hồng Hà, Hồng Hà ! Vẻ Vang đây, có phải mày
đang ở bên cạnh tao không? Mày thử bắn một phát súng xem.
Một phát súng nổ ở đồi bên phải, cách tôi chừng một cây số. Tôi đáp
nhận và 2 bên ước hẹn cùng đi về Koroc để tránh ngộ nhận nhau. Chúng
tôi lại tiếp tục đi hết rừng cây lại đến rừng tranh. Đằng sau, tôi
nghe B.52 nổ từng loạt một, tôi đoán đồi 55O đă thành b́nh địa. Chợt
nghĩ tới Chính rỗ chắc giờ này đă tan thành mây khói mà ḷng quặn
đau. Tôi quên hẳn chính ḿnh cũng đang ṃ mẫm trong rừng sâu, chưa
biết phận ḿnh sẽ ra sao nữa. Chúng tôi vừa băng qua một con suối
th́ có hai ba người lính ḅ lên gần tôi th́ thầm:
- Đại úy, em thấy
tụi nó cứ ḷ ḍ sau đuôi ḿnh, chúng bám kỹ quá. Đại úy để tụi em
dợt một cái.
Tôi suy nghĩ một chút rồi gật đầu:
- Ừ, tụi mày lấy độ
1O người ẩn nấp lại. Trên này sẽ lục tục đi cho chúng tưởng ḿnh đi
hết, diệt tụi nó xong nhớ dọt ngay nhé. Tao sẽ chờ ở cánh rừng trước
mặt.
Một lát sau tôi nghe phía sau súng nổ dữ dội, có cả tiếng
M.79, lựu đạn. Tôi vừa cho bố trí dừng lại xong th́ nghe có tiếng
thở hổn hển đằng sau:
- Đại úy, Đại uư! tụi em chơi tụi nó hết rồi.
Thịt cũng được chục tên.
Tôi khen rồi cho lệnh tiếp tục đi, ở đầu
máy tôi nghe tiếng Hợp:
- Vẻ Vang, Vẻ Vang! Mày bắn ǵ thế?.
Tôi vui
vẻ trả lời:
- Hồng Hà yên tâm, tao vừa zu-lu thịt tụi nó xong. Đang
zu-lu tiếp đây!.
Chúng tôi đi được một lúc lâu, nh́n đồng hồ đă 5 giờ sáng. Tôi ước
lượng đi khoảng 3 cây số đường rừng nữa sẽ đến Koroc, vừa lúc đó tôi
nghe tiếng “bục” trên không. Một cánh dù nhỏ, một trái sáng chiếu lơ
lững và tôi cũng bắt được truyền tin của Tiểu đoàn 3 Sói Biển cho
biết Tiểu đoàn 3 Pháo binh của Trung tá Trần Thiện Hiệu bắn soi sáng
cho các đơn vị rút quân. Tôi thấy yên ḷng và đốc thúc đoàn quân đi
nhanh hơn. Đến 6 giờ rưỡi sáng th́ chúng tôi đến chân núi Koroc, tôi
cũng thấy lác đác những toán khác, mọi người trở lại với hàng ngũ
của đơn vị ḿnh. Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến sẽ cho trực thăng đến
bốc chúng tôi về Khe Sanh. Tôi cho tập họp cứ 1O người một toán và
ưu tiên cho những người bị thương. Độ nửa giờ sau máy bay đến,
chuyến bốc đầu tiên an toàn nhưng qua đợt thứ hai th́ địch bắt đầu
pháo kích. T́nh h́nh trở nên lộn xộn, cho nên hễ máy bay xuống là
chạy ra ngay. Địch lại pháo 13O ly, chứng tỏ chúng đă bám sát ta rất
kỹ. Tuy nhiên trước lằn đạn địch, máy bay cũng cố bốc cho hết binh
sĩ. Có chuyến vừa đáp xuống là gặp pháo kích lại bay lên, binh sĩ
chưa kịp vào ḷng máy bay phải đeo càng trực thăng rất nguy hiểm.
Gần đến chuyến chót tôi chạy ra vọt lên và bấy giờ mới cảm thấy nhức
nhối ở bàn tay bị thương. Về đến Khe Sanh, toán Quân y lựa thương
liền xin trực thăng tải thương cho tôi ra bệnh viện Quảng Trị ngay.
Cũng tại Khe Sanh, tôi được biết đáng lẽ chúng tôi phải lội bộ về
nhưng Đại tá Bùi Thế Lân, Tư lệnh phó kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn
TQLC đă bắt buộc Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 phải cho máy bay
bốc Lữ đoàn 147 về với bất cứ giá nào.
Trong thời gian chữa trị vết thương, tôi nghe đài phát thanh tổng
kết thiệt hại đôi bên, mới biết đó là một cuộc thử lửa vô tiền
khoáng hậu. Quân lực ta đă nhảy vào một khu trận địa sắp sẵn của
địch, như một ổ kiến lửa th́ làm sao không thiệt hại cho được. Tuy
nhiên ta cũng đă phá vỡ biết bao kho tàng, đường dây giao liên của
địch và khám phá chỗ dấu vũ khí, đạn dược, các ổ pháo của địch. Làm
cho chúng phải mất khả năng tấn công miền Nam ít nhất một thời gian
dài mới cũng cố lại được lực lượng chuyển tiếp vũ khí đạn dược.
Chiến sĩ ta bao gồm các lực lượng như Sư đoàn 1 Bộ binh, Nhảy Dù,
Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến đă hy sinh cho chiến trường Hạ
Lào khá nhiều. Một số bỏ thây lại chiến trường làm người chiến sĩ vô
danh, trong đó có Chính rỗ, người lính truyền tin hiền ḥa và dũng
cảm của tôi. Một số bị bắt trong lúc rút lui như Phạm Hiệp Sĩ và
Hiển của Đại đội Viễn Thám mà sau này khi gặp lại nhau ở trại cải
tạo Sơn La, chúng tôi đă ôm nhau khóc, khóc cho phận ḿnh, cho binh
chủng và cho đất nước. Số anh em bị bắt ở Hạ Lào đă nói với chúng
tôi là trong thời gian bị giam cầm từ 71-76, họ cứ hy vọng miền Nam
sẽ chiến thắng. Họ không tin biến cố 75 mà cho là Cộng sản lừa
bịp... cho đến khi gặp lại chúng tôi. Ngoài ra tôi c̣n gặp các chiến
hữu đơn vị bạn như Đại tá Thọ, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Dù bị bắt ở
phía Bắc Tchépone. Cả Trần Ngọc Huế, Tôn Thất Măn, Nguyễn Văn Thuế
là các Tiểu đoàn trưởng gan ĺ của Sư đoàn 1 Bộ binh bị bắt ở
Tchépone khi rút lui trên quốc lộ 9.
Tuy nhiên những người anh hùng đó cũng đă để lại một trang sử vẻ
vang cho hậu thế và thế giới biết về sức mạnh của Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa qua cuộc thử lửa mà chính Quân đội Hoa Kỳ phải đánh giá
rất cao.
|