Lữ Đoàn 369 TQLC Tử Chiến Vương Hồng Anh tổng hợp *
Lữ đoàn 369 TQLC, từ Ba Lòng đến Mỹ Chánh: Như đã trình bày, trong suốt tháng 4/1972, được sự yểm trợ mạnh mẽ của Không quân Việt-Mỹ, Pháo binh TQLC, Lữ đoàn 1 Kỵ Binh VNCH, hai lữ đoàn 147 và 258 TQLC đã đánh bật nhiều đơn vị CSBV trong các trận tấn công cường tập vào phòng tuyến Đông Hà, căn cứ Phượng Hoàng, Ái Tử... trong tháng 4/1972. Sau các trận kịch chiến này, nhiều đơn vị TQLC bị tổn thất gần 1/3 quân số. Trong cuộc triệt thoái vào đầu tháng 5/1972, dù lui binh trong điều kiện khắc nghiệt, dưới hỏa lực pháo quá nặng của đối phương, nhưng các đơn vị TQLC vẫn giữ được đội hình trong thế tác chiến, nhờ đó đã tạo được thời gian trì hoãn và truy cản cần thiết để bộ Tổng Tham mưu QL/VNCH và bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 tái phối trí lực lượng tiến hành cuộc tổng phản công. Sau ngày 2 tháng 5/1972, bờ Nam sông Mỹ trở thành tuyến phòng thủ tiền phương của lực lượng VNCH tại chiến trường Trị-Thiên. Nỗ lực chính của phòng tuyến trọng điểm này là lữ đoàn 369 Thủy quân Lục chiến. Trước khi cuộc chiến Mùa Hè 1972 bùng nổ, lữ đoàn hoạt động tại mật khu Ba Lòng tỉnh Quảng Trị bao gồm các căn cứ hỏa lực Mai Lộc, Holcomb, núi Bá Hô, Sarge ngay phía Nam Khe Gió trên Quốc lộ 9 dẫn đến Khe Sanh. Đến hạ tuần tháng 3/1972, lữ đoàn 369 TQLC bàn giao khu vực trách nhiệm cho lữ đoàn 147 TQLC về Sài Gòn để bổ sung quân số và tái chỉnh trang sau 4 tháng hành quân tại Quảng Trị.
Dự tính, các đơn vị thống thuộc lữ đoàn sẽ được nghỉ ngơi tại hậu cứ
3 tuần lễ, nhưng chưa được 2 tuần lễ thì sáng ngày 1 tháng 4/1972,
lữ đoàn 369TQLC được lệnh phải bổ sung quân số, đạn dược, lương thực
gấp rút để chuẩn bị di chuyển bất cứ giờ nào. Sáng sớm ngày 2 tháng
4/1972, theo lệnh của Bộ Tổng Tham mưu QL/VNCH, Sư đoàn TQLC đã điều
động bộ tham mưu và các đơn vị yểm trợ sư đoàn, bộ chỉ huy lữ đoàn
369 và 3 tiểu đoàn thống thuộc 2, 5 và 9 Thủy quân Lục chiến, tiểu
đoàn 1 Pháo binh Thủy quân Lục chiến không vận bằng C130 đến phi
trường Phú Bài, cách Huế hơn 10 km đường chim bay về phía Nam. Đến
Huế, lữ đoàn 369 TQLC đã nhanh chóng di chuyển vào vùng hành quân ở
Tây Nam Quảng Trị. Theo tài liệu của cựu đại tá Phạm Văn
Chung-nguyên lữ đoàn trưởng lữ đoàn 369 TQLC, tiến trình tham chiến
của bộ chỉ huy lữ đoàn này và các đơn vị thống thuộc được ghi nhận
như sau: Ngay sau khi các đơn vị thống thuộc lữ đoàn 369 TQLC vào vùng, Cộng quân đã gây áp lực nặng “phủ đầu” bằng hỏa lực pháo binh. Suốt ngày đêm, bộ chỉ huy lữ đoàn đặt tại căn cứ Nancy, và căn cứ Barbara của tiểu đoàn 2 TQLC bị CQ pháo kích dồn dập, nhiều hoạt động bị tê liệt, số quân sĩ bị thương hoặc tử trận tăng mỗi ngày. Đại tá Phạm Văn Chung-lữ đoàn trưởng, phải đổi chiến thuật, không đặt nặng việc giữ các căn cứ chỉ định, ngoại trừ cầu cống trên Quốc lộ 1. Các đơn vị được lưu động hóa, di chuyển và ẩn hiện bất thường trong khu vực hành quân, các căn cứ gần như bỏ trống, chỉ để lại một trung đội chốt trong các hầm hố kiên cố. Thay đổi chiến thuật tỏ ra hữu hiệu, pháo binh CQ không xác định được vị trí đóng quân của TQLC nên chỉ tác xạ vu vơ, thăm dò. Với chiến thuật này, các tiểu đoàn TQLC đã dễ dàng điều động các đại đội để truy kích CQ trong vùng trách nhiệm.
Trong một báo cáo gửi cho bộ Tư lệnh Thủy quân Lục chiến HK, thiếu
tá Robert Sheridan-cố vấn lữ đoàn 369 TQLC, đã tường trình như sau:
Lữ đoàn không cho phép một đơn vị nào ở vị trí quá 36 tiếng đồng hồ.
Suốt trong tháng 4 chúng tôi phải di chuyển theo bộ chỉ huy lữ đoàn
21 lần. Các pháo đội pháo binh thường là mục tiêu chính của pháo
binh CQ cũng phải di chuyển thường xuyên. Trong thời gian 24 tiếng
đồng hồ gần những ngày cuối tháng 4, tiểu đoàn Pháo binh TQLC đã
thay đổi vị trí 4 lần, có 1 pháo đội phải thay đổi vị trí 6 lần.
Phải di động như thế để tránh pháo binh địch nhưng các tiểu đoàn tác
chiến vẫn được yểm trợ hỏa lực đầy đủ khi họ yêu cầu.
Tiểu đoàn 2 TQLC bị trung đoàn 24 CSBV tấn công dữ dội. Với chiến
thuật tiền pháo hậu xung, Cộng quân đã mở hàng loạt xung phong biển
người vào các vị trí hành quân của tiểu đoàn này quanh căn cứ
Barbara. Ý định của CQ là muốn chiếm căn cứ này để uy hiếp căn cứ
Nancy, bộ chỉ huy lữ đoàn 369, cầu Mỹ Chánh, Quốc lộ 1. Trước áp lực
của đối phương, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Xuân Phúc đã linh động trong
chiến thuật: phân tán mỏng tiểu đoàn rồi bất chợt tập trung nhanh
chóng tấn công vào điểm sơ hở nhất của đối phương vào lúc bất ngờ
nhất vào lúc trời sắp tối hoặc vừa rạng sáng. Ngoài ra, cố vấn tiểu
đoàn là đại úy Merl Sexton đã kịp thời liên lạc điều không để hướng
dẫn Không quân Hoa Kỳ từ hạm đội 7 ngoài biển yểm trợ tiếp cận. Cùng lúc khởi động cuộc tấn công vào tiểu đoàn 2 TQLC, sư đoàn 304 CSBV đã điều động trung đoàn 9 và trung đoàn 66 tiến hành các đợt tấn công vào tuyến đóng quân của tiểu đoàn 5 và tiểu đoàn 9 TQLC. Quân sĩ của 2 tiểu đoàn TQLC này đã nỗ lực đẩy lùi các trung đoàn nói trên ra khỏi các cao điểm ở phía Tây chế ngự kiểm soát Quốc lộ 1. Các trận tấn công của CQ và các cuộc phản công của TQLC tiếp diễn hàng ngày. Lực lượng tiểu đoàn 5 và 6 TQLC cố gắng vận dụng sự yểm trợ của Pháo binh và Không quân để chận đứng các cuộc tấn công cường tập của CQ: ban ngày thì xin Không quân oanh tạc các vị trí của địch quân bằng bom nặng, đêm thì liên lạc xin yểm trợ các phi vụ chiến thuật C 130 Specter Gunship gắn đại bác 105 ly trực xạ từ phi cơ xuống máy bay rất chính xác. Ngày 29 tháng 4/1972, vào hơn 1 giờ trưa, bộ chỉ huy lữ đoàn 369 TQLC nhận được lệnh từ bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn TQLC là Quân đoàn 1 sẽ rút 1 tiểu đoàn TQLC để tăng cường cho Sư đoàn 3 BB giải tỏa áp lực của CQ trên Quốc Lộ 1 từ bờ bắc sông Nhung đến phía Nam thị xã Quảng Trị dài khoảng 5 km. Vào ngày này chiến trường Quảng Trị đang ở vào những giờ phút khốc liệt nhất… |