| 
			 
			32 NĂM GẶP 
			LẠI...TÔN THẤT TRÂN 
			
				
					| 
					 
					   | 
					
					 
					   | 
				 
			 
			
			
			Tôi lặng lẽ bên bờ kinh An Hạ. 
			Đêm lạnh lùng hờ hững mấy v́ sao! 
			Bóng mờ nhạt, vài lùm cây bất động. 
			Đường dây căng, binh sĩ lội qua sông. 
			Tiếng b́ bơm, th́ thầm đầy hối hả. 
			Bầy nhóc nhen tấu khúc buốt tim ḷng! 
			Trời An Hạ hoang sơ, sầu năo nuột! 
			Quận Đức Ḥa chết lịm nỗi chờ mong(1) 
   
			Chiều ngày 30-4-75, tôi và một số chiến hữu bị bắt giữ tại Hậu 
			Nghĩa. Qua ngày hôm sau, có một chiến hữu trẻ của Trân, mặc thường 
			phục, lái xe Honda, đến ngay trường tiểu học Mỹ Hạnh, nơi tôi và các 
			anh em đang chờ đợi, để bị chuyển tiếp vào căn cứ Đồng Dù, Củ Chi, 
			t́m gặp tôi và ch́a một mẫu giấy với hàng chữ viết tay: “Em đang 
			bị giữ tại B́nh Chánh. Trân!” vắn tắt chỉ có thế. 
			 
			Đọc mẫu tin, tôi cũng tạm yên tâm và nghĩ thầm: “Sau cuộc chiến, 
			trong buổi hỗn loạn, tranh tối, tranh sáng mà giữ được an toàn tính 
			mạng ở giữa giờ thứ 25, vậy cũng là một điều may mắn cho gia đ́nh.!” 
			 
			Tiếp đến, là em trai út tôi chở bà xă tôi bằng xe Vespa đến thăm gặp tôi 
			lần đầu tiên. Bà xă rất mừng, v́ biết tôi không bị chết như người ta 
			đă đồn đăi. Tôi liền chuyển mảnh giấy tin tức của Trân, để đem về 
			sài g̣n báo tin cho vợ con Trân biết. 
			 
			Nhưng sự việc không xảy ra suông sẽ như tôi mong ước, bẳng đi hai 
			tuần lễ mong chờ, Bà xă tôi dẫn theo con gái 6 tuổi, nay lên thăm 
			tôi lần thứ nh́, tại căn cứ Đồng Dù, Củ Chi. Trên đầu chít vành khăn 
			tang trắng và thông báo hai cái tang dồn dập. 
			 
			Cái tang đầu tiên là Nhạc Phụ của tôi đă qua đời. V́ buồn trong hận 
			mất nước, cộng thêm bịnh cao huyết áp cũ, nay lại càng cao hơn.
			Cái tang thứ nh́ là chú Trân đă bị bắn chết ở B́nh Chánh, nhưng gia 
			đ́nh chưa t́m được xác của chú. 
			 
			
			Tràng AK ḍn dă nỗ xa xa. 
			Người gục xuống như bầu trời sụp đổ. 
			Không trận đánh nhưng chiến trường dành chỗ. 
			Để vùi chôn một chiến sĩ mà thôi 
			Tôi thương tiếc người anh hùng Tôn Thất, 
			Trước nguy cơ, ngạo khí vẫn hiên ngang. 
			Chiều xuân tàn, mưa lệ khóc Thu Đông. 
			Đền nợ nước hồn thiêng người tuấn kiệt(1). 
			 
			Qua ngày 2-5-75, theo hướng dẫn của một chiến hữu trẻ thuộc đơn vị 
			Trân, người anh ruột và vài thân nhân trong gia đ́nh tất 
			tả đi t́m 
			xác Trân ở Đức Ḥa lẫn B́nh Chánh. Lúc này vợ Trân đang có con gái 
			đầu ḷng chưa tṛn một tuổi, nên không cùng tháp tùng đi t́m Trân 
			được. 
			 
			Sau khi biết rơ, là Trân đă bị đem đi thủ tiêu, trong vùng sông rạch 
			chằng chịt, dừa nước rậm rạp hoang vu, nên biết chỗ nào mà t́m kiếm 
			đây? Qua ngày thứ ba, ban đêm người anh nằm mộng thấy Trân hiện về, 
			mặc quân phục rằn ri, người ướt đẫm và nói: “Anh đừng đi t́m em 
			nữa!” 
			 
			Sau này, thân mẫu tôi, nhà ở Tân Định, đêm đêm bà cụ nằm mơ, thấy 
			Trân hiện về nhưng đứng ngoài sân chờ đợi, chứ không gơ cửa!
			Sở dĩ h́nh ảnh này cứ ám ảnh theo bà măi, v́ trước năm 75, mỗi lần 
			Trân đi hành quân về, từ hậu cứ đơn vị ở Thủ Đức, v́ đang c̣n độc 
			thân, nên Trân lái xe Lambretta về Saigon ghé thăm bà cụ. V́ c̣n quá 
			sớm nên Trân đứng chờ ngoài hiên, chưa dám gơ cửa, sợ mất giấc ngủ 
			của bà! H́nh ảnh của người con hiếu thảo này, cứ sống măi trong tâm 
			trí bà. 
			 
			Sau 1-5-75. mặc dù Trân đă chết, thỉnh thoảng trong giấc ngủ, bà vẫn 
			cho rằng Trân có về thăm, nhưng chỉ đứng ngoài hiên chờ đợi.
			Sau này người anh tôi, nghe bà cụ kể lại, nên đem tất cả áo quần, đồ 
			đạc của Trân đem lên chùa để thiêu đốt và kư thác ảnh thờ của Trân 
			vào chùa. Kể từ đó, bà cụ không c̣n thấy h́nh ảnh đó nữa! 
			 
			Trong những năm tù Cộng Sản ở trại Cốc, Yên Bái năm 1979, hàng đêm 
			khuya lạnh lẽo, lúc thức giấc tôi thường thấy anh Luân(2) huyền bí ngồi 
			"Thiền", nên tôi có cảm t́nh đặc biệt. Có một hôm tôi kể sơ qua về 
			cái chết của Trân, vậy mà sáng hôm sau, lúc cùng đi lao động, anh 
			Luân kể cho tôi nghe: “Đêm qua tôi ngồi Thiền, thấy Trân hiện về mặc 
			bộ đồ rằn ri, toàn thân ướt đẫm, gương mặt đượm vẻ buồn, không nói 
			năng ǵ cả!” Tôi nghe mà giật ḿnh, lạnh toát người. V́ từ trước đến 
			giờ, anh Luân chưa hề gặp mặt và biết Trân là ai? Ngoại trừ nghe tôi 
			kể chuyện về Trân, lần đầu tiên vào chiều tối hôm trước. 
			 
			Năm 2003, lúc ĐSHN có đăng một bài viết về Trân, với h́nh bán thân 
			kèm theo, tôi đă gởi tặng anh Luân một cuốn đặc san, hiện định cư ở 
			Texas, để biết rơ hơn về Trân. Sau đó mấy hôm, tôi nhận được thư hồi 
			âm của anh Luân, có đoạn như sau: 
			"Nhận được thư anh, cùng ĐSHN với phóng ảnh của chú Trân, ngay đêm 
			hôm đó và tiếp theo những đêm kế tiếp, vào lúc giờ Tí canh ba, là 
			lúc dương trần và âm cảnh giao thời trùng lặp, tôi đă ngồi tập trung 
			tư tưởng (Concentration) và (Quán)(Meditation) bức phóng ảnh của chú 
			Trân. Sau mỗi đêm, càng rơ nét soi sáng thêm. Nên hôm nay biên thơ 
			cho anh chị. Lần này chú Trân có vẻ hân hoan vui vẻ hơn. Đượm nét 
			mừng rỡ thấy rơ". Tự nhiên mách bảo một vấn đề liên quan về chị. 
			H́nh như trong quá khứ, chị có khấn nguyện hay cầu xin một vấn đề ǵ 
			đó, mà đạt thành.. 
			 
			Hằng năm, vào dịp đầu tháng 5 dương lịch, tôi và bà xă đều có cúng 
			giỗ cho Nhạc Phụ và chú Trân. Đặc biệt năm nay 2003, sau khi khấn 
			nguyện xong nhà tôi đă cảm tác KHÓC EM qua lời thơ: 
			 
			
			Tháng năm ngày giỗ chú Trân. 
			Linh hồn của chú nguyện cùng nước non. 
			Bay đi khắp bốn phương trời. 
			Miệng cười thỏa măn chí trai vẹn toàn. 
			Anh hùng vị quốc vong thân. 
			Đầy bầu nhiệt huyết không hàng địch quân. 
			Đạn bay kết liễu tấm thân. 
			Chú đành ngă gục vũng bùn chôn thây. 
			Thịt xương bón đất quê hương. 
			Cỏ cây xanh tốt máu đào nuôi thân. 
			Thương cho chú tuổi c̣n son. 
			Mới ngoài ba chục hy sinh cuộc đời. 
			Thắp hương ghi tạc tấm ḷng. 
			Gia đ́nh nhớ chú, người em trai hiền. 
			Khói hương nay tỏa khắp pḥng. 
			Hồn thiêng chú hăy hiện về thăm anh(3). 
			 
			Tôi c̣n nhớ trong thơ anh Luân gởi, từng có nói: Có lẽ thấm nhuần 
			phần nào Giáo lư cao siêu của Đức Phật có dạy rằng: “Công việc lo ma 
			tang, tống táng là một việc làm công quả, là một phước báu .” Chúa 
			cũng có dạy rằng: “Đó cũng là một việc làm phước, làm thiện.” 
			 
			Cái chết của chú Trân cũng gần giống như thân phụ tôi, năm 1947, 
			là công chức thuộc 
			chính phủ Trung phần của Hoàng Đế Bảo Đại.Vào một đêm cuối năm 1947, 
			cộng sản tấn công quận lỵ Pḥ Trạch, Quảng B́nh. Sau đó bắt thân phụ 
			tôi dẫn lên “mật khu” . Một thời gian ngắn sau đó, th́ nghe tin đă 
			chết trong trại giam, chưa rỏ địa điểm mật khu nào? Nam Đông hay 
			trại Lư Bá Sơ !? 
			 
			Rồi chiến tranh lan tràn triền miên, nên đến nay vẫn không t́m hài 
			cốt được! 
			 
			Hiện nay tại nghĩa trang gia đ́nh thuộc hệ 7 pḥng 12, Tôn Thất 
			Nguyễn Phước Tộc ở Trúc Lâm, Huế, ngoài các ngôi mộ của tổ tiên, ông 
			bà ra, c̣n có xây 2 “NGÔI MỘ GIÓ” tượng trưng, một để tưởng niệm đến 
			Thân Phụ tôi, và một dành cho chú Trân. 
			 
			Đầu năm 1988, tôi được trở về đoàn tụ gia đ́nh, ngoài vợ con tôi 
			ra c̣n có Thân Mẫu tôi là người mừng rỡ nhất, Người đă trông chờ tôi 13 
			năm tù tội dài đăng đẳng. Tôi có làm hồ sơ bổ sung, xin cho bà cụ 
			cùng xuất cảnh với gia đ́nh tôi theo diện HO. Qua năm sau, Bà cụ như 
			có linh tính báo trước, bà cụ nói với tôi rằng: Thôi Mẹ không đi Mỹ 
			với con nữa đâu đoạn cuối năm 1989, Bà đă qua đời ( 9-10-89), nhẹ 
			nhàng như cây đèn dầu đă cạn. Thọ 75 tuổi...Bà chỉ chờ đợi để nh́n 
			thấy mặt tôi; chứ không thể nào chờ đợi được chú Trân, mà Bà đă nuôi 
			hy vọng là TRÂN C̉N SỐNG! 
			 
			Trước khi làm lễ “xả tang” để ông anh tôi và gia đ́nh đi Mỹ theo 
			diện ODP năm 1992 và gia đ́nh tôi theo diện HO năm 1993, anh tôi 
			nói: “Bà già rất linh thiêng! Bà muốn có "mồ yên mă đẹp trước khi 
			các con trai ĺa xa bà!". 
			 
			Năm 1992, anh Thất(4) đến thăm và từ giă tôi để chuẩn bị xuất cảnh 
			theo diện HO. Tôi thầm nghĩ chỉ có hai người duy nhất là Thất và 
			Hùng (5) người cùng đi với Trân ở giờ thứ 25 trong ngày 1-5-75, là 
			có thể hướng dẫn và t́m kiếm ra được địa điểm mà Trân đă bị dẫn đi 
			thủ tiêu ở B́nh Chánh! Tuy nhiên gặp Thất, tôi ngần ngại mở lời yêu 
			cầu trong thời điểm này! Bây giờ ưu tiên trước mắt là anh Thất cùng 
			gia đ́nh phải xuất cảnh được song suốt, yên lành theo diện HO. 
			 
			Hơn nửa mỗi tù cải tạo cộng sản dù đă được trở về đoàn tụ với gia 
			đ́nh, nhưng nhất cử nhất động, đều bị công an cộng sản theo dơi, 
			huống hồ là bây giờ, đi đến một địa phương lạ, đầy “hắc ám“ như Đức 
			Ḥa, B́nh Chánh hiện nay chẳng hạn!? Rút kinh nghiệm đau thương của 
			anh Ngọc (6): sau khi học tập trở về, có lần anh lên Hậu Nghĩa chơi, 
			để thăm viếng bạn bè, bà con. Anh được đón tiếp niềm nở và 
			“đăi đằng“ ăn uống vui vẻ. Nhưng sau đó bị công an địa phương bắt 
			nhốt 6 tháng mà không nêu lư do và bằng chứng ǵ cả? Chúng chỉ nghi 
			là CIA, nay lên móc nối các đường dây để tái hoạt động, chống phá 
			cộng sản!? Lúc thả ra chúng không cấp giấy tờ ǵ để xác minh cả. Sau 
			đó anh Ngọc đă vượt biển và đến Mỹ an toàn. 
			 
			Khoảng năm 2004, biết gia đ́nh tôi vẫn chưa t́m ra được hài cốt của 
			Trân, anh Ngà (7) đă viết thơ, sau đó điện thoại báo cho tôi biết là 
			người nhà của anh ở Việt Nam đă nhờ các nhà “ ngoại cảm“ chỉ bảo, 
			hướng dẫn, kết quả là t́m được các hài cốt của 5 anh em trong gia 
			đ́nh bị chết và mất xác trong cuộc chiến vừa qua, ở miền Trung. Lúc 
			quật mộ khai thác, t́m thấy thẻ bài kèm theo, chứng minh xác thực! 
			 
			Trong thế giới tâm linh, có rất nhiều điều con người chưa khám phá 
			được. 
			 
			Từ trước năm 1975, Trân có “chuộc“được “1 đạo bùa “của một vị cao 
			tăng người “Miên“ để phù hộ cho bản thân b́nh yên trong lúc đi hành 
			quân ở miền tây. Sau đó v́ sợ bị thất lạc, Trân nhờ người em trai út 
			cất giữ giùm. Người em út cất sau tấm ảnh của phụ thân, treo thờ 
			trên tường ở nhà Tân Định, trước bàn thờ tổ tiên. Chiều ngày 1-5 năm 
			1975, tự nhiên người em trai nghe một tiếng “bục” thiệt lớn và có 
			làn chớp sáng ḷe qua ảnh lộng kiếng của phụ thân, th́ thấy đạo bùa 
			đó từ sau lưng khung ảnh rớt xuống đất. Mà tấm ảnh của phụ thân kể 
			cả khung ảnh, không bị rớt hay sứt mẻ ǵ!? Huyền linh, huyền bí hay 
			trùng hợp ngàn năm một thuở, không thể nói được về ngày giờ chết của 
			Trân!!! 
			 
			Đă 32 năm qua rồi, c̣n ǵ nữa!? Thế mà … Sau ngày 30-4-75, lối một 
			tuần lễ, gia đ́nh ông Bảy Thanh trở về khu đất đai ruộng vườn sở hữu 
			của Tổ Tiên ông bà để lại, để hồi cư, khẩn hoang lập nghiệp. Vùng 
			này đă bị hoang phế v́ chiến tranh, bom bay đạn lạc, dân chúng đă bỏ 
			đi từ lâu. Địa thế sông rạch chằng chịt của B́nh Chánh, lẫn lộn dừa 
			nước, tràm đước, lau sậy chen lẫn cỏ dại um tùm.  
			
			Trong khu đất 
			dự tính lập cư, ông Bảy Thanh t́nh cờ thấy một xác chết quân nhân, 
			nằm sấp, bên cạnh bờ rạch nhỏ. Ông Bảy Thanh vội vàng đắp đất lấp 
			lên thành một g̣ mả và tồn tại măi cho đến ngày hôm nay ( 2007). 
			 
			Vào ngày rằm, mùng một và các ngày Lễ Phật, gia đ́nh ông Bảy Thanh 
			đều có thắp hương, cắm bông lên mộ. Những ngày kỵ giỗ ông bà tổ tiên 
			trong gia đ́nh, bà Bảy Thanh c̣n khấn nguyện và mời vong linh người 
			quá cố để hưởng lộc cúng cùng với gia đ́nh. Ông bà Bảy Thanh hằng 
			tin tưởng rằng vong linh người quá cố rất linh thiêng, v́ phần lớn 
			những lời cầu xin của ông bà đều được ứng nghiệm, có kết quả tốt, 
			làm ăn thuận lợi, những người trong gia đ́nh được b́nh yên, mạnh 
			khỏe, con trai con gái học hành đỗ đạt, gia đ́nh êm ấm hạnh phúc. 
			 
			Nghĩa là suốt 32 năm qua, vong linh người quá cố vẫn được hương khói 
			đầy đủ, mặc dù không có người thân ruột thịt nào hay biết. 
			 
			Trong mùa vu lan Đinh Hợi năm nay 2007 ông bà Bảy Thanh làm một lễ 
			cúng bái và cầu xin Vong Linh Nguời Quá Cố cho phép bốc mộ cải táng, 
			để tiện mở mang xây cất nhà cửa, phát triển ruộng vườn trồng trọt và 
			chăn nuôi. Thế là mộ được bốc lên. Ngoài hài cốt ra c̣n t́m thấy 2 
			tấm thẻ bài bằng nhôm, có dây đeo vào cổ, mặt trái thẻ bài dính đất 
			cát màu vàng, hoen ố một chút. Tuy nhiên mặt phải 
			vẫn c̣n sáng 
			trắng, nét chữ khắc đọc rơ ràng: 
			 
			Tôn 
			Thất Trân 
			62-112-139 
			AB 
			
			 
			Vậy là kể từ nay, gia đ́nh ông bà Bảy Thanh biết được hài cốt của 
			vong linh người quá cố mà đă gần gũi với gia đ́nh ông bà trong suốt 
			32 năm qua, có tên là Tôn Thất Trân. Sau khi đào bới và tập trung 
			các mẫu của bộ xương đàng hoàng, ông Bảy Thanh đem rữa bằng rượu 
			trắng, xong bỏ vào bao nylon, rồi bỏ vào một b́nh bằng sành sứ, kèm 
			theo với 2 tấm thẻ bài. 
			Ngay đêm đầu tiên, sau khi bốc mộ hoàn tất, ông Bảy Thanh ngũ nằm mơ 
			thấy Trân hiện về và nói : "Ông bốc c̣n thiếu 1 khúc xương". Ông bảy 
			Thanh sợ quá, nhưng trong giấc mơ có trả lời ngay rằng "xin Ông 
			thông cảm chứ hồi sáng tôi đă đào kỷ lắm rồi". 
			 
			Hôm sau, b́nh sứ đựng hài cốt Trân được xếp vào trong 1 quách nhỏ, 
			và đem đặt ngay vị trí mộ cũ, nhưng lần nầy đặt nổi trên mặt đất, 
			chung quanh được xếp bằng các viên gạch nung để che chắn hờ, phía 
			trên nóc, có che 1 tấm fibro ciment, đóng trên 4 cọc gỗ, để làm nhà 
			quàng tạm, che mưa nắng. 
			Ông bà Bảy Thanh dự tính, nếu sau 2 tháng mà không t́m được thân 
			nhân của ông Trân nhận lănh, th́ sẽ xin chôn cất ở nghĩa trang thuộc 
			địa phương.
			Một mặt nhờ bạn bè truy t́m tung tích thân nhân của ông Trân dùm. 
			 
			Nhờ may mắn hay cũng có thể nói, nhờ sự hiển linh của Trân, chỉ 1 
			tuần lễ sau, gia đ́nh người chị ruột của Trân ở Sàig̣n, được bạn bè 
			thông báo tin tức. Qua ngày kế tiếp, bà chị đă xuống nhà Ông bà Bảy 
			Thanh để nhận lănh Quách chứa hài cốt Trân và 2 tấm Thẻ Bài chứng 
			minh. 
			 
			Ông bà Bảy Thanh rất là tử tế và lương thiện, khi bà chị tôi ngỏ ư 
			tặng một số tiền để đền ơn đáp nghĩa, nhưng ông bà khước từ Ông bà 
			nói: "Đây là việc làm để phước đức cho con cháu. Hơn nữa trong thời 
			gian qua, ông Trân đă phù hộ cho gia đ́nh chúng tôi được mọi sự an 
			lành, làm ăn phát đạt. Ông Trân rất linh thiêng". 
			 
			Sau đó bà chị làm thủ tục xin hỏa táng, và đem B́nh Cốt chú Trân vào 
			an vị ở chùa thuộc G̣ Vấp. Nơi mà trong giữa tháng 5-1975, gia đ́nh 
			đă kư thác ảnh thờ cho Tôn Thất Trân rồi. Vào đây, chú sẽ gặp lại 
			cảnh cũ mà chú đă từng ở qua. Gặp lại bà con xưa cũ: các D́, Dượng 
			và nhiều bà con ruột thịt đă quá văng từ lâu! 
			 
			“Giờ 
			đây kỷ vật của anh. (8). 
			Thẻ bài in đậm với vành khăn sô. 
			Nay anh nằm yên đáy mồ. 
			Non sông gấm vóc muôn đời nhớ anh.” 
			 
			Kể từ nay, chú b́nh tâm ngày ngày nghe tiếng cầu kinh, gơ mơ, tiếng 
			chuông chùa ngân dội cơi thinh không. Chú tự do bay bổng lên trời để 
			thăm bà mẹ già, mà lúc nhắm mắt chưa được nh́n thấy chú! Chú cũng sẽ 
			gặp được phụ thân, mà lúc qua đời h́nh hài không được an táng đàng 
			hoàng! Hay chú có thể bay ra Huế, để ghé thăm 2 ngôi “Mộ Gió“ của 
			phụ thân và của chú ở Trúc Lâm! 
			 
			32 năm, bây giờ anh mới biết nơi mà chú tạm trú trong thời gian qua. 
			Bây giờ anh mới nh́n thấy lại tấm thẻ bài mà em đă mang theo bên 
			ḿnh trong suốt 32 năm qua, trong đó có ghi (tên họ) Tôn Thất Trân, 
			(số quân) 62/112139 và (loại máu) AB.
			Anh cũng mang cùng loại máu AB như em đó! Niềm ân hận về cái chết 
			tức tưởi và việc chưa t́m được xác của em, đă đè nặng trong tâm khảm 
			anh suốt 32 năm qua; nay đă được em hiển linh giải tỏa. 
			 
			Cám ơn em. Xin cầu nguyện linh hồn em được siêu thoát cơi Vĩnh Hằng. 
			Anh của em. 
			 
			Tôn 
			Thất Soạn. 
			Mùa Vu Lan. Đinh Hợi, 2007. 
			Iowa City, Iowa. 
			
			
			Audio - 32 
			Năm Gặp Lại Tôn Thất Trân 
			 
			GHI 
			CHÚ: 
			(1) Trích bài thơ “Kinh An Hạ” của Đ/U Nguyễn Sao Đáp ĐĐT/TĐ 
			327-ĐPQ. Hậu Nghĩa. 
			(2) Luân: Đ/Tá Lê Đ́nh Luân, Nha kỹ thuật. Đ/Tá Lê Đ́nh Luân đă trải 
			qua trên 17 năm tù CTCS, là một trong những chiến sĩ cuối cùng rời 
			khỏi trại cải tạo, hiện cùng gia đ́nh định cư tại DFW, Texas. 
			(3) Bài thơ “Khóc em” của Người Bầu Trai. 
			(4) Thất : Th/T Tô Công Thất, K-16 Dalat, Quận Trưởng. Đức Ḥa. Hậu 
			Nghĩa. 
			(5) Hùng : Th/t Bùi Văn Hùng, CHT/CSQG. Quận Đức Ḥa. Hậu Nghĩa. 
			(6) Ngọc: Th/t Nguyễn Văn Ngọc, TP3/TKHN. 
			(7) Ngà :Th/t Trương Ngọc Ngà, TP2/TKHN. 
			(8) Trích bài thơ “Tâm thẻ bài với vàng khăn sô” của Trung Tá Nguyễn 
			Minh Châu, TĐ3. Sói Biển, Quận Trưởng. Quận Đức Ḥa. Hậu Nghĩa. 
			
			   |