Tiểu 
					Đoàn Trâu Điên 
					
					                            
					                   
					và 
					
					                                                        
					
					Người 
					Phóng Viên Chiến Trường
					
					***
					
					Hiện nay cộng đồng người Việt tỵ nạn CS sống trên đất Mỹ thường 
					có một sinh hoạt rất ý nghĩa và đượm tình đồng hương, đó là những 
					buổi họp mặt (đại hội) hằng năm của những người cùng địa 
					phương, cùng học đường, cùng quân trường và nhất là của các 
					cựu quân nhân cùng đơn vị. Thông thường thì đại hội được tổ 
					chức vào những dịp có nhiều ngày nghỉ lễ, tùy theo khả năng 
					và nhu cầu mà tổ chức mỗi năm hoặc hai năm một lần. Binh 
					chủng TQLCVN chúng tôi thì tổ chức mỗi năm một lần, luân 
					phiên ở các tiểu bang khác nhau. Năm 2008 chúng tôi tổ chức 
					tại Little Saigon vào dịp July 4,, anh em Mũ Xanh các nơi về 
					tham dự đến gần 400 người, trong đó có khá đông anh em thuộc 
					Tiểu Đoàn 2/TQLC mang danh hiệu Trâu Điên. 
					Trong khi các cựu Trâu Điên đang vui vẻ ôn lại chuyện đồng 
					đội cũ chiến trường xưa thì vị cựu tiểu đoàn trưởng ra hiệu 
					yên lặng rồi ông mở tờ báo KBC/HN ra cho mọi người xem bài 
					viết của tác giả Ngọc Anh với tựa đề "Người Yêu Trâu Điên". 
					Bên lề bài viết là tấm hình của một phụ nữ rất duyên dáng 
					với áo dài trắng, tóc xỏa bờ vai nhưng đôi mắt thì quá buồn. 
					Bầu không khí buổi họp mặt bỗng sôi động hẳn lên, có nhiều 
					tiếng huýt sáo y như ngày nào năm xưa khi em "gái" hậu 
					phương đến thăm anh "trai" ngoài tiền đồn biên giới.  
					Chưa biết nội dung nói gì nhưng ai cũng đòi người anh cả đơn 
					vị cho cầm tờ báo để ngắm người đẹp, người đẹp giữa chốn ba 
					quân, khiến nét mặt anh cả tươi vui với giọng nói trẻ trung 
					như ngày xưa ra lệnh trước hàng quân: 
					"Ai là thủ phạm, ai là "Người Yêu Trâu Điên" thì bước ra 
					khỏi hàng". 
					Thật bất ngờ, mấy chục "ông già" trong quân phục rằn ri sóng 
					biển cùng nhất loạt đứng lên đưa cao tay, miệng hô lớn: 
					"Em, chính em, chính là em". 
					"Thưa đại bàng, không phải thằng đó, em mới chính là thủ 
					phạm." 
					Nếu tác giả Ngọc Anh, dù là nam hay nữ, mà nhìn thấy cảnh 
					này chắc chắn sẽ cảm động. Chỉ với cái tựa bài viết thôi mà 
					đã khiến những cựu quân nhân già cỗi nơi hải ngoại bỗng trở 
					lại thành những người lính trẻ trung oai hùng năm xưa, vui 
					thật là vui. 
					Trước tình thế khó xử, biết trao "người đẹp" cho ai bây giờ 
					nên anh cả liền bắt bí: 
					"Trâu Điên nào đã tham dự trận đánh vùng Phú Lâm hồi tết Mậu 
					Thân đưa tay lên". 
					Tất cả các cánh tay lại đồng loạt đưa thẳng lên như năm xưa 
					tuyên thệ ngày mãn khóa tại vũ đình trường, trong đó có 
					nhiều anh khi trận Mậu Thân xẩy ra thì còn là học sinh. Anh 
					cả mỉm cười vì ai cũng muốn "tự giác" nên ông đành trao tờ 
					KBC/HN cho một người rồi ra lệnh: 
					"Trận Mậu Thân cậu là một trong hai đại đội trưởng chịu 
					trách nhiệm giải tỏa khu vực mũi tàu Phú Lâm, hãy cầm tài 
					liệu này về điều tra xem ai là người bị tác giả N.A khiếu 
					nại". 
					Mọi người cùng cười, chỉ một tựa bài viết mà làm không khí 
					sinh động hẳn lên, mọi Trâu Điên cùng nâng ly chúc mừng sức 
					khỏe giống như nâng ly mừng chiến thắng Phụng Dư, Đầm Giơi, 
					Cổ Thành v.v..  
					Tôi đưa tay nhận tờ KBC/HN như nhận tấm bằng tưởng lục. 
					* 
					Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần bài viết "Người Yêu Trâu Điên, 
					tất cả những gì tác giả N.A ghi lại đều có liên quan đến 
					cuộc hành quân 40 năm về trước của đơn vị tôi. Tôi tự hỏi 
					không lẽ lại có sự trùng hợp lạ lùng đến thế sao? Đây phải 
					là một câu chuyện có thực. 
					Nội dung câu chuyện nói về thân phụ của tác giả là một phóng 
					viên chiến trường, ông đi theo Tiểu Đoàn Trâu Điên đề chụp 
					hình quay phim những trận đánh trong thành phố Saigon tết 
					Mậu Thân. Trong những hình ông chụp có một tấm hình đẹp của 
					người lính Trâu Điên và ông đã tặng tấm hình đó cho con gái 
					khi cô mới chỉ là một nữ sinh lớp Đệ Lục trường Gia Long. 
					Thân phụ N.A đã kết thân với người lính ấy và mỗi khi họ trò 
					chuyện bên nhau thì cô bé chăm chú nhìn hình con trâu trên 
					vai áo trận rằn ri. Rồi người lính ấy di chuyển đi nơi khác 
					khiến cô bé bâng khuâng và khi VC tấn công đợt 2 thì thêm 
					một đại họa bất ngờ ập đến với tuổi thơ, thân phụ tác giả đã 
					bị VC hạ sát trong lúc đang thi hành công vụ! 
					Xin phép tác giả cho tôi trích một vài đoạn trong bài viết "Người 
					Yêu Trâu Điên" để đem so sánh với những gì đã xẩy ra 40 năm 
					về trước ở đơn vị tôi khi tham dự trận Mậu Thân:  
					(trích)  
					Anh Trâu Điên yêu dấu. 
					Khi viết năm chữ này, trái tim em đập những nhịp bất thường, 
					ngón tay cầm viết cũng run rẩy. Trước mặt em là tấm hình đen 
					trắng .. 
					Anh Trâu Điên biết mà, tấm hình này chính Ba em chụp cho anh. 
					Tự nhiên Ba cầm tấm hình ngắm nghía rồi đưa cho em, nói: 
					"Tấm hình này đẹp quá, muốn giữ không con?" 
					Tấm hình Ba khen đẹp quá, em đã ép trong cuốn nhật ký nhỏ, 
					dấu kín giữ cho riêng em mà thôi. 
					Tháng Năm năm Mậu Thân, VC lại tấn công thủ đô lần thứ Hai. 
					Buổi sáng hãi hùng đó, không có anh Trâu Điên, Ba em đã đi 
					luôn... Không, Ba có trở về bằng thân xác còn nóng hổi, máu 
					còn chẩy ra linh láng, ướt hết quần áo em! Hai chị em yếu 
					đuối đã vác xác Ba về ... 
					Lá thư này em viết nhưng không bao giờ gửi, vì em đâu biết 
					anh Trâu Điên ở nơi nào trên mảnh đất đầy thống khổ .... Em 
					viết lá thư này như một nhu cầu yêu thương dành cho anh Trâu 
					Điên, ngươi bạn trẻ của Ba, hình ảnh Ba và anh Trâu Điên 
					luôn gắn liền nhau trong lòng em. Em giữ mãi lá thư không 
					gửi trong cuốn nhật ký . 
					Với lòng mong mỏi anh Trâu Điên vẫn còn sống sót đâu đó biết 
					rằng trên mặt đất này vẫn còn có một người nhớ tới anh Trâu 
					Điên ngày xưa.  
					(Ngưng trích. Quý vị nào muốn đọc tòan bài viết xin tìm trên 
					Việt Báo online, hay email cho: phuongtimxua @yahoo.com 
					) 
					Thực sự tôi chưa biết rõ tác giả Ngọc Anh là nam hay nữ, 
					nhưng tấm hình kèm theo bài viết thì là hình của "cô" Phượng 
					Tím, người cùng với "anh" Dương Thượng Trúc phụ trách mục "Thư 
					hậu phương, thư tiền tuyến" trên báo KBC/HN. Tiết mục này 
					tương tự như hộp thư "Dạ Lan" của đơn vị tôi ngày xưa, 
					chuyên gửi những lá thư tình của em gái hậu phương cho anh 
					lính tiền tuyến khiến nhiều anh tưởng thật, mơ một ngày về 
					phép đến rủ em Dạ Lan dạo phố. Nhưng thực sự thì cô "Dạ Lan" 
					cũng chỉ là người lính chiến có súng, cầm súng như các anh 
					mà thôi. 
					Nhân dịp đọc bài viết "Người Yêu Trâu Điên", tôi xin thuật 
					lại một vài chi tiết 40 năm về trước để giúp tác giả biêt 
					thêm về lòng yêu nghề mà không ngại gian lao nguy hiểm của 
					người phóng viên chiến trường. Nếu đích thực ông là thân phụ 
					của tác giả thì xin cho tôi gửi lời chia buồn  đến gia đình 
					người quá cố, một phóng viên mà tôi quý mến.. 
					***
					Tết 
					Mậu Thân 1968, TĐ.2/TQLC đang hành quân vùng Cai Lậy, Giáo Đức, 
					Định Tường thì được trực thăng bốc về Saigon và đổ quân 
					xuống ngay trong sân bộ Tổng Tham Mưu, sau khi thanh toán 
					xong tụi VC ở trường Sinh Ngữ, trung tâm Ấn Loát, cổng xe 
					lửa số 6 thì Tiểu Đoàn Trâu Điên chia ra từng đại đội đi 
					đánh các nơi khác, sau đó thì Đại đội 1 của tôi và đại đội 4 
					của Đại Úy Vũ Dzoan được lệnh giải tỏa lực lượng địch đang 
					chiếm khu cư xá Phú Lâm. 
					Chúng tôi lục soát và chiếm những mục tiêu đang có VC cố thủ 
					trên những nhà lầu dọc theo hai con đường Hậu Giang và Lục 
					Tỉnh để tiến về mũi tàu Phú Lâm và đài phát tuyến. Vì chiến 
					đấu trong thành phố nên chúng tôi không được phép sử dụng 
					pháo binh và máy bay, do đó  chúng tôi đã gặp nhiều khó khăn 
					bởi vì địch đã nằm sẵn trên các cao ốc, nhìn rõ mục tiêu, 
					nhắm súng vào chúng tôi. Nhưng đã là lính thì phải chấp nhận 
					hy sinh để giảm thiểu thiệt hại sinh mạng và tài sản của 
					đồng bào. 
					Khi đại đội tôi tiến đến ngã tư đường Hậu Giang và Phú Định 
					thì đụng nặng, địch khá đông đang cố thủ trong hãng pin Con 
					Ó, cách chúng tôi một bãi đất trống và hỏa lực rất mạnh. Đã 
					mấy tiếng đồng hồ rồi mà quân ta chưa tiến thêm được bước 
					nào mà bị thương và tử trận ngày càng tăng cao trong khi 
					thượng cấp thì ra lệnh phải tiến "bằng mọi giá"! 
					Chúng tôi phải xin tăng cường xe thiết giáp để TQLC tùng 
					thiết (có nghĩa là bộ binh và thiết giáp che chở yểm trợ cho 
					nhau cùng tiến), cấp trên đã biệt phái xuống cho tôi một 
					thiết giáp M41. Chỉ một chiếc thôi thì chưa đủ, nhưng có còn 
					hơn không nên tôi cho lệnh trung đội đi đầu của thiếu úy 
					Nguyễn Văn Quang chuẩn bị "tùng thiết" để vượt qua khoảng 
					trống, chiếm mấy cao ốc trước mặt, thiết lập đầu cầu. Tiến 
					như thế rất nguy hiểm nhưng phải theo lệnh cấp trên. 
					
					
					Khi xe và quân tùng thiết tiến lên thì tôi bất ngờ trông 
					thấy anh phóng viên chiến trường núp sau pháo tháp và đang 
					đưa máy hình lên chụp. Anh ta đã đi theo đơn vị tôi lao vào 
					lửa đạn cả ngày rồi nhưng ngồi trên pháo tháp như thế thì 
					thật liều mạng, giận quá tôi quát: 
					"Này anh phóng viên, yêu cầu anh xuống xe ngay". 
					Tôi hét lớn với người phóng viên đang bám theo xe trong tình 
					trạng hết sức nguy hiểm, nhưng có lẽ vì tiếng máy nổ của M41 
					lớn quá khiến nggười phóng viên không nghe được, hoặc cũng 
					có thể anh ta "giả điếc" để cố bám theo toán quân xung phong 
					đầu tiên. Một tay anh  bám vào thành xe, một tay bấm máy 
					hình liên tục. Mỗi khi xe lắc lư như muốn hất tung mọi người 
					xuống đất thì anh phóng viên vội buông máy hình treo tòng 
					teng vào cổ còn 2 tay thì bám chặt vào xe. Nguy hiểm quá, 
					nếu không bị bắn thì anh ta cũng bị rớt xuống, sẽ bị xích xe 
					cuốn theo ngay! Không chần chừ đươc nữa, tôi ra lệnh cho Hạ 
					Sĩ 1 Bùi Ngọc Đường: 
					"Đường, lôi ngay ông phóng viên xuống đất cho tao". 
					Không chậm trễ một giây, người lính cận vệ của tôi nhẩy lên 
					xe ôm ngang lưng người phóng viên rồi nhẩy khỏi xe thiết 
					giáp, cả hai cùng té lộn nhào xuống đất. Trong lúc hai người 
					còn đang nhăn nhó chưa kịp đứng dậy thì xe thiết giáp rú ga, 
					gầm lên ủi sập bức tường phía trước mặt, lập tức địch bắn đủ 
					mọi loại vũ khi về phía chúng tôi. Xe bị trúng đạn B40, 
					tiếng nổ chát chúa hất tung những người ngồi trên xe xuống 
					đất, thiết giáp chồm lên đống gạch rồi khựng lại phun khói, 
					cả khói xe lẫn khói đạn B40 mịt mù khiến tôi không nhìn thấy 
					gì cả. 
					Sau vài động tác xoa mặt dụi mắt, tôi mới nhận ra được một 
					cảnh tượng hết sức đau lòng. Xe bị đứt xích, người trưởng xa 
					M41 ngồi trong pháo tháp thò đầu ra ngoài thì đã biến đâu 
					mất rồi! Cái nón sắt của anh văng ra xa, móp méo và bê bết 
					máu! Thiếu Úy Nguyễn Văn Quang*, đi sau xe thiết giáp thì 
					đang gượng đứng dậy, 2 tay xoa khắp người xem có bị thương 
					chỗ nào không, Hạ Sĩ Danh-Thon, hiệu thính viên của Th/Úy 
					Quang nằm sấp bất động, ngực đè lên máy truyền tin PRC25, 
					tôi lật người Thon lại, một viên đạn xuyên qua máy truyền 
					tin anh đeo trước ngực, xuyên qua áo giáp, trổ ra sau lưng 
					một lỗ nhỏ, máu chưa kịp thấm ra ngoài. (* Thiếu Úy Quang 
					khóa 18 Võ Khoa đã tử trận một năm sau đó) 
					Đảo 
					mắt quan sát một vòng, tôi thấy xung quanh xe thiết giáp vài 
					quân nhân bị thương, chưa biết nặng nhẹ ra sao. Cách đó vài 
					mét, người phóng viên ngồi dựa lưng vào tường, mặt nhăn nhó, 
					chắc là lúc bị Đường kéo té xuống đất đau lắm, nhưng anh ta 
					vẫn còn đủ sức đưa máy lên bấm liên tục. Khi máy nhắm về 
					phía tôi, anh trông thấy người vừa ra lệnh "lôi" anh ấy 
					xuống đất nên anh ta lắc lắc cái đầu tỏ ý "ghê quá" và đưa 
					nắm tay với ngón cái hướng lên trời, không biết ý anh muốn 
					nói là may mắn vừa thoát chết hay là muốn nói cám ơn tôi đã 
					đuổi anh ấy xuống, có thể là cả hai. Tôi tiến lại bắt tay 
					anh và nói đùa: 
					"Về nhà nhớ mua heo cúng nghe ông, lần sau ráng giữ lấy cái 
					"gáo dừa". 
					Anh nắm chặt tay tôi như muốn nói thêm điều gì nhưng rồi lại 
					vội vàng tiếp tục đưa máy chụp nhiều tấm hình. Đến lúc này 
					tôi mới biết là xe thiết giáp đã bị 2 trái B40 bắn vào xích 
					và pháo tháp. Pháo tháp là một khối sắt dầy, đạn B40 không 
					phá được nhưng sức nổ đã làm bay những gì xung quanh, cuốn 
					theo phần thân trên của anh thiết giáp, còn phần thân dưới 
					có lẽ đã bị đứt ra và lọt vào trong lòng xe rồi! Nếu anh 
					phóng viên còn bám theo pháo tháp để chụp hình thì không 
					biết sẽ ra sao? Tôi không hối hận khi cương quyết đuổi anh 
					ta xuống xe. 
					Thấy xe bằng sắt mà còn bị đứt huống chi người, thượng cấp 
					không hối thúc tiến nữa mà cho dừng quân để trực thăng 
					(gunship) đến bắn rockets thẳng vào mục tiêu, nhờ vậy chúng 
					tôi mới vượt qua được khoảng trống và tiến nhanh đến giải 
					tỏa địch khu cư xá Phú Lâm. 
					Bài viết này chúng tôi không chủ tâm viết về trận Mậu Thân 
					mà chỉ muốn nói về chuyện người Phóng Viên Chiến Trường nên 
					chúng tôi không đi vào chi tiết việc binh đao mà xin quay về 
					với người "lính" mang ống kính, máy chụp hình. 
					Rất hiếm khi có được phóng viên chiến trường ở ngay tuyến 
					đầu tại mặt trận, có chăng là sau khi mọi chuyện đã xong 
					xuôi, báo chí mới tháp tùng theo phái đoàn trung ương đến 
					quan sát trận địa để chụp hình quay phim đưa hình phái đoàn 
					hoặc hình những xác VC, những cây súng gẫy lên báo chí còn 
					những hình người lính chiến thì mờ-mờ ảo-ảo làm nền trang 
					trí  
					Nhưng lần này về đánh giặc ngay trong lòng thủ đô nên có dịp 
					nằm cùng phóng viên ngay tuyến đầu, những hình ảnh người 
					lính TQLC xung phong vào lửa đạn đều được các anh chụp và 
					đưa lên các trang nhật báo ngay ngày hôm sau kèm theo tên 
					tuổi đơn vị v.v như trường hợp phóng viên Nguyễn Tú của nhật 
					báo Chính Luận, những hình ảnh và bản tin của anh viết về 
					Trâu Điên trên báo đã được thân nhân gửi ra chiến trường 
					khiến chúng tôi rất hãnh diện. Dù không biết ông Nguyễn Tú 
					nay ở nơi đâu nhưng cũng xin thay mặt anh em để cám ơn ông 
					Tú. 
					Có những người lính thấy hình mình được đăng trên báo, dù 
					không rõ lắm nhưng cũng thấy thích thú, cắt xén thật cẩn 
					thận để giữ làm kỷ niệm hoặc làm quà tặng cho người yêu. Các 
					cấp chỉ huy thì cất kỹ những trang báo nói về trận đánh của 
					đơn vị mình rồi đóng khung lồng kính treo lên chỗ trang 
					trọng nhất của đơn vị.  
					Đối với người lính tác chiến thì những hình ảnh và bài viết 
					của các phóng viên chiến trường về đơn vị họ, nhất là các 
					đơn vị cấp nhỏ như trung đội hay đại đội, là một niềm an ủi 
					lớn lao, một điều khích lệ vô cùng quan trọng cho tinh thần 
					chiến đấu của họ, nhưng tiếc thay, trong quá khứ, người có 
					trách nhiệm đã không để ý đến "binh sĩ vận" mà chỉ lo "thượng 
					cấp vận". 
					
					
					Có được người phóng viên đi theo khiến anh em lính chúng tôi 
					lên tinh thần, hơn nữa chuyện anh thoát lưỡi hái của tử thần 
					vừa qua càng làm chúng tôi quý mến nhau hơn nhất là tình cảm 
					giữa anh và Bùi Ngọc Đường, họ thân nhau như anh em, dù tuổi 
					tác có chênh lệch. 
					Trong lúc đơn vị tôi tạm đóng quân trong cư xá để chờ nhiệm 
					vụ mới thì anh phóng viên dẫn chúng tôi về nhà, cũng ở trong 
					cư xá Phú Lâm, anh có ý muốn giới thiệu chúng tôi với chị ấy 
					và các cháu. Trước khi bước vào nhà anh nói nhỏ với tôi và 
					Đường: 
					"Các anh đừng nói gì về chuyện vừa xẩy ra nhá, sợ bà xã tôi 
					và sấp nhỏ lo lắng". 
					Một người vừa yêu nghề lại vừa yêu vợ con nên đôi khi cũng 
					không dám nói sự thật, tôi thông cảm với anh vì tôi vẫn 
					thường nói dối như thế. Mỗi lần về phép, mẹ tôi hỏi đi lính 
					có vất vả không thì tôi không ngần ngừ mà trả lời mẹ ngay:  
					"Như đi làm thư ký văn phòng ấy mà." 
					Anh giới thiệu chị và các con với chúng tôi, có lẽ cũng đến 
					"ngũ long công chúa", cháu lớn chỉ độ "trăng tròn" là cùng. 
					Thấy lính tráng súng ống vào nhà nhưng lại ngồi uống café 
					hút thuốc nói chuyện vui vẻ với bố nên các cháu an tâm, bạo 
					dạn hơn, thập thò sau màn che, cười khúc khích, kí đầu hoặc 
					vỗ vào lưng nhau "thùm-thụp". 
					Một gia đình thật hạnh phúc, tôi ước mong một ngày nào trong 
					tương lai có được mái ấm gia đình như anh, nhưng có lẽ còn 
					lâu lắm, vì anh hơn tôi gần một "con giáp". Cũng có thể 
					không bao giờ có được hạnh phúc ấy một khi còn "vui đùa" với 
					súng đạn, nghĩ vậy nên tôi tâm sự với anh: 
					"Này anh, nếu hôm qua Đường không ôm anh nhảy xuống đất thì 
					hôm nay đâu còn chầu café này, anh đâu còn nghe tiếng cười 
					khúc khích dễ thương của các cháu, anh phải hết sức cẩn thận 
					khi đi làm phóng sự ngoài chiến trường, hoặc nên đổi nghề, 
					lương không được bao nhiêu mà có quá nhiều nguy hiểm, anh đã 
					có gia đình, các cháu đang nhìn anh kia kìa". 
					Tôi chỉ tay vào phía trong nhà, sau bức màn che, thấp thoáng 
					một hai cô bé tóc đuôi gà đang nhìn bố tiếp khách, anh nhìn 
					theo hướng tay tôi chỉ, anh gật gật đầu ra chiều suy nghĩ.  
					Khi bắt tay từ giã, anh xiết chặt tay tôi và nói nhỏ: 
					"Anh sẽ để ý và nghiên cứu lại lời khuyên của chú". 
					Tôi thật cảm động khi nghe anh xưng "anh" và gọi tôi bằng 
					"chú" (em) mang đậm nét tình nghĩa gia đình. Từ hai người xa 
					lạ, chỉ qua một lần cùng chung nguy hiểm mà chúng tôi trở 
					thành anh em thân thiết hồi nào không hay. 
					Anh tiễn chúng tôi ra cửa nhưng có tiếng chị dặn với theo: 
					"Tối các em nhớ lại ăn cơm canh chua cá kho tộ với các cháu 
					cho vui".  
					Vui quá đi chứ, hổm rầy sống giữa thành phố mà cứ phải "nhá" 
					C ration*, thịt hộp 3-lát ngán quá (* thức ăn đóng hộp cho 
					lính hành quân). Nhưng ngay tối đó đại đội tôi phải di 
					chuyển gấp đến mặt trận Bình Hòa nên không kịp báo tin cho 
					anh chị hay. 
					Ngày qua ngày TĐ2 di chuyển khắp nơi, từ nội thành ra tới 
					ngoại ô, từ Nhà Bè sang bến đò Long Kiển, lên Nhị Bình (Lái 
					Thiêu), chỗ nào có bong dáng VC là chúng tôi phải đến. Đã có 
					lần đơn vị chúng tôi trở lại lục soát khu vực rừng khóm 
					(dứa) (thuộc mật khu Lý Văn Mạnh), rất gần với cư xá Phú Lâm 
					nhưng không có thì giờ ghé thăm  anh chị. 
					Rồi VC tấn công đợt 2, bận túi bụi với những người "anh em" 
					từ bưng về thành, nào là ngã ba Cây Thị, xóm Cao Đồng Hưng, 
					khu Đồng Ông Cộ, cầu Bình Lợi, ngã ba Cát Lái v.v.., người 
					tử trận kẻ bị thương, chúng tôi không còn thì giờ nhớ đến 
					gia đình, nhớ đến người yêu nên hình dáng người phóng viên 
					cũng mờ dần. 
					Vào khoảng tháng 10/1968, tình hình Saigon hòan toàn yên 
					tĩnh trở lại, TĐ.2 được biệt phái cho Quân Đoàn III để hành 
					quân vào mật khu Hố Bò, Bời Lời. Trước khi đi xa Saigon, Bùi 
					Ngọc Đường trốn đi chơi nguyên ngày, khi trở lại đơn vị thì 
					vừa kịp nhảy lên xe GMC cùng đại đội di chuyển đến quận Hiếu 
					Thiện (Tây Ninh) và từ đây được trực thăng vận vào mật khu 
					Bời Lời ngay nên tôi chưa có dịp "thưởng" cho Đường 5 roi. 
					Cũng may là ngay trong trận này, Bùi Ngọc Đường cùng với 
					Nguyện Văn Hợi đã liều mình cứu sống được viên trung úy cố 
					vấn Mỹ bị thương và đã bị VC bắt. Nhờ thành tích này mà 
					Đường được Sư Đoàn TQLC tưởng thưởng cho một xe Honda và dĩ 
					nhiên tôi cũng tha cho hắn tội trốn đi phố.  
					Bùi Ngọc Đường và tôi là hai "thầy trò" nên khi đi hành quân 
					thì như hình với bóng, Đường luôn ở bên cạnh để giúp tôi khi 
					cần thiết, đi đâu là phải hỏi, vậy mà lần này dám đi cả 
					ngày, đã vậy khi trở về lại có vẻ buồn. Tuy được phòng Tâm 
					Lý Chiến Sư Đoàn thưởng cho chiếc Honda mà sao Đường không 
					vui! Và rồi, xe Honda còn trùm mền chờ ngày Đường về phép để 
					chở người yêu dạo phố thì Đường lại hy sinh trong một cuộc 
					hành quân sau đó! 
					Khi Đường tử trận rồi, Nguyễn Văn Hợi, người cùng với Đường 
					cứu sống cố vấn Mỹ, mới nói thật với tôi là Đường trốn đi 
					phố là để về thăm anh phóng viên ở cư xá Phú Lâm, và người 
					anh kết nghĩa này của Đường đã bị VC hạ sát trong đợt 2 trận 
					Mậu Thân! 
					Nghe Hợi nói mà tôi bỗng rùng mình, nhớ lại lúc Đường ôm 
					người phóng viên nhẩy khỏi xe thiết giáp và họ đã thoát 
					không bị nát thây trong gang tấc và rồi họ kết nghĩa anh em, 
					tình huynh đệ chưa được bao lâu thì anh hy sinh mà em không 
					biết! Khi trở lại thăm anh, chưa tàn bó nhang thắp cho anh 
					thì em lại tử trận!  
					Cả hai đều những người tôi thương mến, hình ảnh của họ đã 
					nằm sâu trong ký ức, nào ngờ, 40 năm sau, một sự tình cờ mà 
					hai hình ảnh này sống lại thật rõ ràng trong trí nhớ của 
					những người hay quên hiện tại mà nhớ dai chuyện quá khứ.  
					Đọc từng dòng từng chữ câu chuyện của N.A, tôi tin chắc 
					người bạn phóng viên chiến trường, người anh kết nghĩa của 
					Trâu Điên Bùi Ngọc Đường chính là thân phụ của tác giả bài 
					viết "Người Yêu Trâu Điên" và người lính trong tấm hình mà 
					N.A dấu kín trong tập nhật ký nhỏ có phần chắc là Bùi Ngọc 
					Đường! 
					Tác giả N.A kết thúc lá thư không gửi vì không biết anh Trâu 
					Điên ở đâu bằng lời chúc:  
					"Với lòng mong mỏi anh Trâu Điên vẫn còn sống sót đâu đó 
					biết rằng trên mặt đất này vẫn còn có một người nhớ đến anh 
					Trâu Điên ngày xưa". 
					Phần tôi xin kết thúc bài viết "Trâu Điên và Người Phóng 
					Viên" bằng lời nhắn: 
					"Cô Ngọc Anh ơi, Trâu Điên Bùi Ngọc Đường, người trong tấm 
					hình mà cô giữ kín trong cuốn nhật ký, đã không thể về dự 
					đại hội TQLC năm 2008 được.Đường không chết nhưng đã nằm lại 
					đâu đó trên chiến trường miền Nam VN, cũng như thân phụ của 
					cô, ông không chết nhưng về với các con bằng thân xác còn 
					nóng hổi, máu chẩy ra linh láng!   
					Tôi tin rằng Bùi Ngọc Đường, người lính trong tấm hình mà cô 
					"nhốt" trong cuốn hồi ký, hay cô nhốt hắn trong tim thì chỉ 
					có hắn biết, hắn sẽ phù hộ cho gia đình cô. 
					
					
					PHILATO 
					California tháng 9 năm 2009.