|
|
NGHỊ QUYẾT 36: PHÂN TÍCH VÀ NHẬN ĐỊNH
MX Lê Công Truyền [“Xứ sở bao dung, sao thật lắm thần dân ĺa xứ! Biển Thái B́nh bồng bềnh thuyền định mệnh. Nhắm mằt đưa chân không hẹn ngày về!” (Nguyễn Duy - Tổ Quốc Nh́n Từ Xa)] Nghị Quyết số 36-NQ/TW ngày 26/03/2004 (NQ36), do Bộ Chính Trị đảng cộng sản Việt Nam (VC) ban hành cách nay trên 4 năm, hiện vẫn c̣n được họ tiếp tục nỗ lực thi hành tại hải ngoại. Do đó, chúng tôi nghĩ, nó vẫn c̣n là một vấn đề thời sự đáng cho chúng ta lưu tâm và đề cao cảnh giác. Văn hào người Nga, ông Alexandre Soljenitsyne, đă viết về cộng sản: “Khi nghe CS nói láo, ta phải có can đảm đứng lên nói nó nói láo. Nếu ta không có can đảm đứng lên nói nó nói láo th́ ta phải có can đảm đi ra khỏi chỗ nó đang nói láo. Nếu ta lại không dám phản đối bằng cách bỏ đi để khỏi nghe nó nói láo th́ ít ra ta phải có cái lương thiện tối thiểu là không kể lại cho người khác nghe những lời nói láo của nó!” Kẻ viết không kể lại cho người đọc những ǵ VC viết láo trong NQ36 mà phân tích nội dung của nó để nói thẳng rằng NQ36 chứa toàn những điều lừa dân dối chúng, đồng thời bày tỏ mối quan tâm trong việc đề cao cảnh giác trước những sự lừa bịp của nghị quyết. A. Phân tích và nhận định nội dung của NQ36. NQ36 gồm có 4 phần. Cuối những câu có chữ (NQ36) là nguyên văn của Nghị quyết. 1. T́nh h́nh và công tác đối với người VN ở nước ngoài trong thời gian qua.
1a) “Cộng
đồng người VN ở nước ngoài có tiềm lực kinh tế nhất định, có mối
quan hệ với nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nước ngoài và quốc
tế, có khả năng t́m kiếm đối tác và làm cầu nối với các doanh
nghiệp, tổ chức trong nước. Nhiều trí thức có tŕnh độ học vấn và
chuyên môn cao, một số người giữ vị trí quan trọng trong các cơ
quan, cơ sở nghiên cứu, đào tạo, các công ty và tổ chức quốc tế, có
khả năng tạo dựng quan hệ với các cơ sở kinh tế, khoa học ở nước sở
tại.” (NQ36)
Người Việt Tị Nạn CS luôn luôn gắn bó với gia đ́nh và quê hương VN c̣n VC chủ trương “vô gia đ́nh, vô tổ quốc, vô tôn giáo” và chỉ gắn bó với Tàu cộng để củng cố quyền lực. Họ càng gắn bó với Tàu cộng th́ đất nước càng bị thu hẹp và sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới! Bắc Thuộc lần Thứ Tư đă manh nha và chắc chắn sẽ thành sự thật nếu tên gác cổng Nhà VN cứ tiếp tục rước bọn Tàu cộng vào chiếm Nhà để mong được trở thành đầy tớ của tên chủ mới ! Trên thực tế (de facto), VN đă là một thuộc địa của Tàu cộng. Xin chứng minh:
1) Nguyễn Minh
Triết, trước khi đi HK, phải qua chầu hầu Hồ Cẩm Đào để nhận lịnh, Qua năm sự kiện nêu trên, chúng ta thấy mối tương quan giữa Tàu cộng và Việt cộng là mối tương quan giữa chánh quốc và thuộc địa, tương tự mối tương quan giữa “Đại Pháp” và Nam Kỳ thuở xa xưa, nhưng tệ hại và tàn độc hơn nhiều. Cao trào chống Thế Vận hội Bắc Kinh đang dâng lên như sóng thần Tsunami. Nếu VC thật sự muốn bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ và tỏ ra không phải là chư hầu của Tàu cộng th́, nhơn dịp này, hăy mạnh dạn tẩy chay Thế vận hội Bắc kinh vào tháng 8 năm 2008: không gởi lực sĩ tham dự, thuyết phục dân không du lịch Tàu cộng, đưa vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa ra truớc Liên Hiệp Quốc, ngưng nhập cảng thực phẩm Tàu cộng để làm thuốc độc giết dân. Làm xong những điều nầy, CSVN có thể quay về với dân tộc để vổ ngực và hét vào mặt Tàu cộng: “Bọn Bắc phương! Chúng bay hăy liệu hồn! CSVN sẽ tự giải thể để trở thành danh tướng Lư Thường Kiệt, B́nh Định Vương Lê Lợi, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Quang Trung Đại Đế của thế kỷ XXI chứ không c̣n là Lê Chiêu Thống và Trần Ích Tắc như từ trước đến nay!” Ôi! Đó chỉ là một giấc mơ, một hoang tưởng của người viết. Hồ Chí Minh có vượt thoát khỏi lồng kiếng Ba đ́nh cũng chẳng dám làm huống chi bọn hậu duệ của lăo, những kẻ khôn nhà dại chợ, chỉ dám bách hại những người sống dưới quyền sanh sát của họ mà thôi!!! 1c) “Đồng bào bà con hoan nghênh công cuộc đổi mới và chính sách đại đoàn kết dân tộc của đảng và nhà nước.”(NQ36) “Chính sách đại đoàn kết dân tộc”, được NQ36 nhắc đi nhắc lại đến 5 lần, chỉ là một chiêu bài mà VC dùng để bịp những người không CS nhưng lại dễ tin CS. Chiêu bài này đă từng được Hồ Chí Minh xử dụng vào năm 1946 khi thành lập “Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Gia” và trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nó đă được thực thi thế nào mà Cố vấn Tối cao Vĩnh Thụy, Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn Hải Thần, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam phải t́m đường lưu vong? Nhiều nhà yêu nước chơn chánh, có uy tín, cũng đă từng là nạn nhơn của “chính sách đại đoàn kết dân tộc”: Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Nguyễn Văn Sổ, Dương văn Giáo, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, bác sĩ Hồ Vĩnh Kư và phu nhơn là bác sĩ Nguyễn Thị Sương v..v… đă bị thảm sát một cách dă man chỉ v́ yêu nước, thương dân, chống Pháp nhưng không là đảng viên CS! Ngay cả Đức Giáo Chủ Phật Giáo Ḥa Hảo, một vi Giáo chủ yêu nước, thương dân, chống Pháp cũng đă bị VC ám hại tại Đốc Vàng Hạ! (5). Nh́n kỷ, chúng ta thấy trọng tâm của chủ nghĩa CS là đấu tranh giai cấp, là vô sản chuyên chính. Đă là vô sản chuyên chính và đấu tranh giai cấp lại được tô đậm bởi điều 4 hiến-pháp năm 1992 th́ làm thế nào có thể dung nhận đối lập! (6). Không dung nhận đối lập th́ làm thế nào chấp nhận đa nguyên, đa đảng! Không chấp nhận đa nguyên đa đảng và chủ trương diệt đối lập th́ làm thế nào “đại đoàn kết dân tộc”! Như vậy, “đại đoàn kết dân tộc” theo kiểu CS khác với “đại đoàn kết dân tộc” của người quốc gia. Người quốc gia quan niệm “đại đoàn kết dân tộc” là “cộng đồng đồng tiến”; không có giai cấp nào “chuyên chính”. Nói khác đi, các tầng lớp trong xă hội giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến trong ư niệm “kẻ có cho người không có” chớ không phải “kẻ không có giết người có để có”! “Chính sách đại đoàn kết dân tộc của đảng và nhà nước” c̣n là chánh sách củng cố và phát huy t́nh đoàn kết giữa một số phần tử trong “đảng” để trấn lột trên 80 triệu người dân đau khổ và cầm tù, quản chế các công dân dám đứng lên đ̣i hỏi tự do, dân chủ, nhơn quyền cho đất nước như quư vị lănh đạo tinh thần các tôn giáo và quư vị luật sư Lê Thị Công Nhân, Bùi Kim Thành, Nguyễn Văn Đài, Lê Quốc Quân, Lê Chí Quang v..v… Công cuộc đổi mới do VC thực hiện chỉ đem lại kết quả là sự cách biệt giữa người nghèo và kẻ giàu ngày càng sâu đậm: người bỏ trên 7 triệu MK để mua phi cơ, kẻ bỏ trên 1 triệu để mua xe hơi, các “quan chức” VC uống “rượu ngoại” giá nhiều ngàn MK một chai, thua cá đá bóng trên cả triệu MK (PMU18) trong khi đó dân nghèo phải bán máu để mua sửa, mua thuốc cho con và bán con như bán con vật hay đồ vật để sống qua ngày!!! Càng đổi mới, số vụ tham nhũng càng tăng, bọn triệu phú trong “đảng” càng trở nên đông đảo, … “Đổi mới” theo kiểu đó, ai là người yêu nước, thương dân lại chẳng đau ḷng xót dạ! Ai là người có liêm sỉ và lương tâm lại chịu “hoan nghênh”! 1d) “Một bộ phận đồng bào do chưa có dịp về thăm đất nước để tận mắt thấy được những thành tựu của công cuộc đổi mới hoặc do thành kiến, mặc cảm, nên chưa hiểu đúng về t́nh h́nh đất nước”(NQ36).
Nếu quả thật “công
cuộc đổi mới” đă và đang đem lại “những thành tựu” th́ “đường
ta, ta cứ đi”, cứ tiếp tục “đối mớí” và tiếp tục thu
hoạch “những thành tựu”, việc ǵ phải ban hành nghị quyết bịp
bợm để vuốt ve “bọn ma cô, đỉ điếm”- nhóm chữ VC dùng để thóa
mạ người Việt Tị Nạn CS.
- Thầy dùng
điểm thi để trao đổi t́nh dục với học sinh,
1e) “Một số
ít người đi ngược lại lợi ích của dân tộc, ra sức chống phá đất
nước, phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại và VN.”(NQ36) 1f) “Nhu cầu giao lưu văn hóa giữa cộng đồng và đất nước, là rất lớn và trở nên bức thiết song chưa được đáp ứng.”(NQ36) Đặt vấn đề “giao lưu văn hóa”, VC đă mặc nhiên công nhận có hai nền văn hóa: văn hóa quốc nội mà cốt lơi là chủ nghĩa Mác Lê và văn hóa hải ngoại mà nền tảng là chủ nghĩa Dân Tộc. Vấn đề giao lưu văn hóa đă được VC nói tới từ lâu và trên thực tế đă được thực thi nhưng chỉ có một chiều: quốc nội tuôn ra hải ngoại. Như vậy, khi cho rằng nhu cầu giao lưu văn hóa giữa quốc nội và hải ngoại “trở nên bức thiết”, VC đă để lộ mưu đồ trong việc nhuộm đỏ văn hóa hải ngoại bằng văn hóa Marxist như họ đă thực thi trong nước. Người xưa đă dạy: Văn Hóa c̣n, Dân Tộc c̣n. Như vậy, văn hóa Marxist c̣n, chế độ CS c̣n. Chế độ CS c̣n, Dân Tộc VN c̣n điêu đứng và đất nước có cơ trở thành một quận, huyện của “đại Hán”. 1g) “Nhu cầu giữ ǵn và phát triển tiếng Việt trong cộng đồng là rất lớn và bức thiết song chưa được đáp ứng.”(NQ36).
Bảo rằng “nhu
cầu giữ ǵn và bảo vệ tiếng Việt ... chưa được đáp ứng” là xuyên
tạc sự thật để lấy lư cớ “Tích cực đầu tư cho chương tŕnh dạy và
học tiếng Việt cho người VN ở nước ngoài nhất là cho thế hệ trẻ”(NQ36),
để dễ bề đầu độc trẻ thơ với những kiến thức đă bị phân hủy trong hố
rác lịch sử của nhơn loại từ nhiều thập niên qua!
Với trên 5 tỷ
mỹ kim do người Việt Tị Nạn CS gởi và mang về hàng năm, VC chưa Cho
là đủ và họ t́m cách trấn lột đến nơi đến chốn cho “tương xứng
với tiềm năng của cộng đồng người VN ở nước ngoài!" Mà có thật
họ dùng 5 tỷ mỹ kim nói trên để “phát triển và xây dựng đất nước”
hay xử dụng tiền mồ hôi, nước mắt của đồng bào để vinh thân ph́ gia
đồng thời để cứu “đảng” và củng cố chế độ bằng cách tăng lương cho
bộ đội để đám này quên nhiệm vụ thiêng liêng của người lính mà chỉ
c̣n nhớ “trung với đảng”! Ngoài ra, VC c̣n dùng tiền của đồng bào để
tăng lương cho công an và huấn luyện bọn này để chúng thẳng tay
trong công tác “bịt miệng” người dân, đánh đập dân oan
khiếu kiện, săn đuổi học sinh, sinh viên biểu t́nh phản đối Tàu cộng
cướp đoạt hai quần đảo của Tổ Quốc VN, bảo vệ bọn Tàu biểu t́nh với
biểu ngữ “Hoàng Sa và Trường Sa là hai giọt máu của Trung Quốc”!
2a) “Người VN ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc VN, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường hợp tác hữu nghị giữa nước ta và các nước.”(NQ36). Sau khi liều ḿnh vượt thoát ngục tù xă-hội chủ-nghĩa, ngườ́ Việt Tị Nạn CS đă đem hết khả năng và kiến thức thụ đắc dưới chánh thể VNCH để tạo được sự nghiệp vẻ vang nơi xứ người. Chợt nhận thấy điều đó, VC bèn trở giọng tâng bốc những ngựi mà họ đă từng thóa mạ trong nhiều năm tháng bằng nhóm chữ “ ma cô, đĩ điếm”. Bây giờ họ không ngượng mồm gọi những người mà họ đă từng sỉ nhục là “ bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc VN”, là “khúc ruột ngoài ngàn dậm” mà họ quyết tâm nuốt cho kỳ hết những ǵ chứa đựng trong đó! 2b) “Nhà nước có trách nhiệm thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lư để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người VN ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế.”(NQ36). Sống ở quốc gia nào, đồng bào Tị Nạn CS tuân hành luật pháp của quốc gia đó và quyền lợi của đồng bào được chính luật pháp của quốc gia đó bảo vệ. Luật pháp của các quốc gia dân chủ Tây phương không phải là luật rừng, muốn bỏ tù, muốn quản chế ai th́ cứ chụp cho người ấy cái mũ “gián điệp”. Như vậy, đồng bào hải ngoại không cần “nhà nước ta thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lư để đồng bào ổn định”. Đồng bào đă ổn định cuộc sống từ lâu, chính NQ36 cũng đă xác nhận trong phần I. Đặc biệt, trong điểm này, NQ36 đă ra chỉ thị cho bọn nằm vùng “chủ động đấu tranh với các biểu hiện cố t́nh đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc”. “Các biểu hiện” này không ǵ khác hơn là cao trào vận động tự do, dân chủ và nhơn quyền cho VN, tố giác trước cộng đồng nhơn loại hành vi buôn dân bán nước của VC. Thế nào là “chủ động đấu tranh”? Áp dụng “đảng sách” khủng bố chăng? “Đảng sách” này đă được VC áp dụng một cách khá điêu luyện từ ngày 03/02/1930!
3. Nhiệm vụ
chủ yếu. Hầu hết người Việt hải ngoại là thường trú nhân hoặc đă có quốc tịch nơi họ định cư. Họ đă ổn định cuộc sống, làm ăn phát đạt, hội nhập vào đời sống xă hội tại các nước sở quan từ lâu, rất lâu trước khi cái nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa VN được Hoa Kỳ cho phép đặt “Ṭa Đại Sứ” tại Hoa Thịnh Đốn. Sở dĩ được như vậy là v́ các quốc gia nơi đồng bào định cư có tinh thần thượng tôn pháp luật chớ không dùng luật rừng để khống chế dân chúng. Như vậy, đồng bào không cần bất cứ ai “tạo điều kiện thuận lợi” và “hỗ trợ”. VC hăy chấm dứt việc gởi các tên đại diện kém tác phong ra ngoại quốc để làm nhục quốc thể (trộm ṣ, sờ mông gái xẩm). C̣n việc “gắn bó với quê hương đất nước”, nó bắt nguồn từ t́nh tự dân tộc, từ ḷng yêu nước chân thật, không cần ai “tạo điều kiện và hỗ trợ”. Có ai “tạo điều kiện” và “hỗ trợ” đâu mà đồng bào hải ngoại đă nhiều phen bày tỏ sự “gắn bó với quê hương đất nước” bằng cách lên tiếng nguyền rủa và kết án bọn dâng đất, dâng đảo, dâng biển cho Tàu cộng cũng như hết ḷng ủng hộ “dân oan khiếu kiện” và các nhà dân chủ trong nước. Về điểm “hổ trợ đồng bào hội nhập vào đời sồng nước sở tại…”, NQ36 ẩn dụ việc VC tung tiền vận động cho bọn tay sai ứng cử nắm các trách vụ dân cử để có thể chui vào “ḍng chính” của các nước sở tại. 3b) “Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước.” (NQ36). Với chánh sách “hồng hơn chuyên” được áp dụng một cách khá tinh xăo th́ đừng mong “thu hút nhân tài” và “phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào”. Người trí thức không bao giờ quên trường hợp của triết gia Trần Đức Thảo, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, Giáo sư Nguyễn Đ́nh Hoan, thương gia Nguyễn Trung Trực v..v… cũng như khẩu hiệu “Trí, phú, địa, hào; đào tận gốc, trốc tận rễ”. Sau khi “đổi mới”, VC tuyên bố là sẽ trọng dụng nhơn tài. Trên thực tế, họ chỉ trọng dụng những phần tử chấp nhận làm thừa sai cho họ và thẳng tay đàn áp những thành phần chỉ trích ôn ḥa các chánh sách có hại cho dân, cho nước. Đó là trường hợp của các luật sư Lê Thị Công Nhân, Lê chí Quang, Lê Quốc Quân, Nguyễn Văn Đài, Bùi Kim Thành nhà báo Nguyễn Vũ B́nh, nhà văn và nhà báo Trần Khải Thanh Thủy và nhiều vị khác. 3c) “Hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách thu hút người VN ở nước ngoài hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nước.”(NQ36)
Tệ nạn tham
nhũng c̣n phủ trùm đất nước th́ đừng ḥng thu hút đầu tư. Những
trường hợp “nhà nước” t́m cách lấy sạch tài sản của kiều bào tin lời
VC mang tiền về đầu tư không phải là ít: Nguyễn Trung Trực ở Úc
Châu, Trương vĩnh B́nh ở Ḥa Lan, Nguyễn Đ́nh Hoan ở Hoa Kỳ... Ngay
cả Trần Trường có “đại công” trong việc treo ảnh Hồ, cờ cộng để “lấy
điểm” với VC, mang tí tiền c̣m về VN “đầu tư” cũng bị trấn lột đến
nơi đến chốn! C̣n nhiều đồng bào hải ngoại khác mang tiền về VN kinh
doanh bị VC đem luật “xă nghĩa” áp dụng, suưt bỏ mạng, phải trốn
chạy với hai bàn tay trắng, nhưng v́ tự ái không thuật lại trường
hợp bỏ của chạy lấy người của ḿnh. Từ năm 1976, người Việt Tị Nạn CS đă bắt đầu thành lập các cộng đồng để giúp đỡ lẫn nhau và hầu hết đă trở thành những cộng đồng gương mẫu khíến cộng đồng nguời địa phương và các cộng đồng thiểu số khác phải ngưởng phục. Khi cần, đồng bào đă đoàn kết chặt chẽ với nhau đâu cần VC “đa dạng hóa các phương thức vận động, các h́nh thức tập họp”. Nếu đồng bào không đoàn kết th́ làm sao đạt được các thành quả như:
- Đập tan âm
mưu của VC trong vụ Trần Trường, Cần ghi nhận rằng thế hệ trẻ đă đóng góp rất nhiều vào sự thành công của các cuộc vận động nói trên. Với nhiệm vụ “đa dạng hóa các phương thức vận động, các h́nh thức tập họp”, VC muốn biến các tổ chức đương hữu của người Việt hải ngoại thành những tổ chức quốc doanh để dễ bề thao túng và yêu cầu ủng hộ định kỳ hoặc bất thường để giúp “nhà nước ta phát triển đất nước”. Có điều chắc chắn VC sẽ tung tiền cho bọn tay sai nằm vùng trong các cộng đồng lập thêm các hội đoàn mới đối nghịch với các hội đoàn đương hữu, nghĩa là xé nát các cộng đồng ra nhiều mảnh nhỏ chống đối lẫn nhau! Ngoài ra, họ c̣n bỏ tiền để bọn tay sai thuê muớn luật sư kiện cáo làm xáo trộn cộng đồng, khiến cộng đồng chú ư đến các vụ kiện vô duyên cớ đó mà lảng quên những ǵ VC đang gây điêu đứng cho dân tộc và đất nước! Cũng trong nhiệm vụ thứ tư này, VC “chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người VN ở nước ngoài, kể cả với những người c̣n có định kiến, mặc cảm với nhà nước và chế độ ta.”(NQ36) Tiếp xúc để ḍ la gia cảnh của chúng ta, để yêu cầu chúng ta cho con em tham dự trại hè, các cuộc chơi ngoài trời, các lớp học Việt ngữ do họ tổ chức, kêu gọi chúng ta đem tiền về VN đầu tư, nhứt là để yêu cầu chúng ta đóng góp định kỳ và bất thường để giúp “nhà nước ta phát triển đất nước”. Nhưng trên thực tế họ dùng tiền đó để đánh phá chúng ta với ư đồ làm tan rả Cộng Đồng Nguời Việt Tị Nạn CS trong kế hoạch “củi đậu nấu đậu” của cơ quan t́nh báo hải ngoại. Người Việt Tị Nạn CS không có bất cứ một thứ mặc cảm nào với VC. Viết như NQ36 là trịch thượng, lên mặt kẻ cả. “Người Việt ở nước ngoài” không có bất cứ một thứ mặc cảm nào đối với bất cứ ai mà chỉ có một nhận định, một quyết tâm và những niềm hănh diện. Nhận định: VC đàn áp tôn giáo, chà đạp nhơn quyền, tiêu diệt dân chủ, dâng đất, dâng đảo, dâng biển cho Tàu cộng, cố t́nh tạo một xă hội băng hoại để dễ bề thống trị, đang d́m đất nước xuống vũng lầy lạc hậu và sẽ dâng VN cho Tàu cộng để tái tạo một thứ “Cửu Chân, Nhật Nam” tân thời. Quyết tâm: Kết hợp với đồng bào quốc nội nhằm tạo điều kiện tiên quyết để VN vươn lên bằng cách giải thể chế độ CS.
Một niềm
hănh diện: Dân quân miền Nam đă chiến đấu một cách anh dũng -
trước khi hai tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ đổ bộ lên Đà nẳng ngày 08/03/65
và sau khi quân đội Hoa Kỳ triệt thoái khỏi VN - chống lại cả tập
đoàn CS quốc tế gồm Liên Bang Sô Viết, Tàu Cộng, Bắc Hàn, Cuba, Khối
CS Đông Âu và CSBV. Người Việt Tị Nạn CS c̣n hănh diện về hai sự
kiện lịch sử: Đập tan trận Tổng công kích Tết Mậu Thân của CSBV và
trận hải chiến Hoàng Sa vào hồi 10:20 sáng ngày 19-1-74 giữa bốn
chiến hạm Hải quân VNCH và hằng chục chiến hạm của Hải quân Tàu
Cộng, trong đó có hai chiến hạm bị Hải quân VNCH bắn ch́m và tiêu
diệt toàn bộ thủy thủ đoàn trên hai chiến hạm, kể cả các tên hạm
trưởng và hạm phó. Hải quân Thiếu tá Ngụy Văn Thà và Hải quân Đại úy
Nguyễn Tthành Trí, hạm trưởng và hạm phó, cùng 56 vị Sĩ quan, Hạ sĩ
quan và Thủy thủ đă anh dũng hy sinh cùng chiến hạm HQ 10. 3f) “Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh, thiếu niên người VN ở nước ngoài.”(NQ36) Các trại hè cũng như trường học các cấp là những nơi dùng để tuyên truyền. VC không hề giấu giếm điều này. Thật vậy, Điều 51 “Đạo luật về Giáo dục” tháng 12 năm 1997 quy định: “Đào tạo đại học nhằm đáp ứng các nhu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc” (8). Chắc chắn “tổ quốc” trong Điều này không phải là Tổ Quốc Việt Nam v́ lúc nào họ cũng quan niệm “yêu nước là yêu xă hội chủ nghĩa”. Vậy, “tổ quốc” của họ là “tổ quốc xă hội chủ nghĩa”, thượng từng kiến trúc của chủ thuyết Mác Lê. Chủ thuyết này đă sát hại hàng triệu người tại những nơi nó ngự trị: Liên bang Sô viết, 20 triệu; Trung hoa, 65 triệu; VN, 1 triệu; Bắc hàn, 2 triệu; Cam bốt, 2 triệu; Đông âu, 1 triệu; A phú hản, 1 triệu 700 ngàn (9) – không kể những người chết trận và bị pháo kích. 3g) “Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền, giúp cho người Việt ở nước ngoài hiểu đúng t́nh h́nh đất nước và chính sách của đảng và nhà nước. Hỗ trợ việc ra báo, mở đài phát thanh.”(NQ36)
Không cần ai
“giúp”, “người Việt ở nước ngoài” cũng thừa biết “chính
sách của đảng và nhà nước”: phản dân, hại nước! Trong nuớc, VC
không cho dân chúng ra báo, chỉ có báo “nhà nước” và báo “đảng”. Như
vậy, “đổi mới toàn diện công tác thông tin tuyên truyền” th́
chỉ có việc phát hành ấn bản các báo “Thanh Niên”, “Sài G̣n Giải
Phóng”, “Nhân Dân”, “Quân Đội Nhân Dân” v..v… tại hải ngoại và bỏ
tiền cho bọn tay sai ra báo, lập đài phát thanh. Các báo, các đài
của VC vừa “thông tin” vừa “tuyên truyền”. Thông tin th́ bưng bít,
tuyên truyền th́ lừa bịp quần chúng và bôi nhọ đối phương. Về “t́nh
h́nh đất nước và chính sách của đảng và nhà nước”, không cần
nghe đài, không cần đọc báo VC, chúng ta cũng thừa biết đài và báo
ấy luôn luôn bôi nhọ chánh thể VNCH và tô son điểm phấn chế độ CS
bằng mọi thủ đoạn hạ cấp. Đây là vấn đề nội bộ của VC và tay sai ở hải ngoại. Hồi đầu năm 2007, VC đă “khen thưởng” 17 người Việt hải ngoại được xem là khoa bảng và chuyên viên. Những người bị gây mê được VC trọng vọng trong nhứt thời như những trái chanh quư, nhưng VC chỉ xem họ như những công dân hạng hai, hạng ba. Vắt nước chanh xong, quăng vỏ vào thùng rác! Các “đại công thần” của chế độ như Dương Bạch Mai, Đinh Bá Thi, các đại tướng VC Hoàng văn Thái, Lê Trọng Tấn, Trần B́nh v..v…đă bị họ sát hại một cách không xót thương. Như vậy, số phận của những công dân hạng hai, hạng ba sẽ ra sao nếu làm trái ư họ?
Hăy nh́n kỷ
trường hợp của triết gia Trần Đức Thảo, LS Nguyễn Mạnh Tường và BS
Nguyễn Khắc Viện! Những vị này cũng thuộc thành phần công dân hạng
hai hay hạng ba v́ không có lư lịch ba đời bần cố nông! Nói như thế
cũng tội cho giới nầy v́ họ cũng nghèo đói, khổ sở, bịnh tật và bị
giam hảm trong ngục tù “xă hội chủ nghĩa”! Chỉ có mấy trăm
triệu phú mỹ kim trong chớp bu của “đảng” được hưởng kết quả của “công
cuộc đổi mới” (10). Có bao giờ những đa triệu phú này nh́n lại
dám dân đen nghèo khổ để ra tay giúp đở v́ họ có “nhă ư nhường”
công việc đó cho đồng bào Tị Nạn CS để họ có nhiều th́ giờ đi du hí
Thái Lan, Tân Gia Ba, Hồng Kông, Thượng Hải, Anh, Pháp v..v…ăn chơi,
cờ bạc, đánh cá, trác táng, triều cống Tàu cộng để củng cố quyền
lực. Đúng là “Chỉ có loài thú mới quay lưng trước nỗi thồng khổ
của đồng loại để chăm sóc bộ lông của ḿnh”. Nực cười thay,
người nói câu này đă xua đuổi, bỏ rơi người tớ gái và đứa con trai
mà hắn đă có với người tớ gái! Ngựi đó chính là tay tổ CS: Karl
Marx! “Hậu duệ” của hắn là Hồ Chí Ḿnh c̣n tệ hại hơn nhiều; lăo này
đă nói: “Vua Hùng có công dựng nước, bác cháu ta phải cố giữ
nước”. “Giữ nước” đâu không thấy, chỉ thấy dâng và bán
nước cho Tàu cộng! Ngoài ra, lăo c̣n mang một tội ác “trời
không dung đất không tha”, Nguyễn Tất Trung “thù hắn đến muôn
đờ́” v́ lăo đă cho thủ tiêu người đă có con với hắn bằng một
“tai nạn” xe hơi! Người thiếu nữ bât hạnh đó là Nông Thị Xuân mẹ của
Nguyễn Tất Trung (11). NQ36 phân công phân nhiệm cho các cơ cấu của “đảng” từ Ban bí thư xuống đến tỉnh ủy, thành ủy của họ nhằm thi hành nghị quyết. Để cụ thể hóa các chỉ thị của Bộ chính trị ghi trong NQ36, Thủ tướng VC đă ban hành Quyết định số 110/2004/QD/TU ngày 26/3/2004 ấn định “chương tŕnh hành động” với 10 công tác phải thực hiện. Các công tác này thực ra chỉ rút từ “9 nhiệm vụ chủ yếu” mà người viết đă phân tích. Chúng chứa toàn những chiêu bài có tác dụng ru ngủ, chiêu dụ đồng bào và phá nát cộng đồng người Việt hải ngoại. NQ36 hứa “Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy liên quan đến người VN ở nước ngoài”(NQ36). Hiến pháp năm 1992 của VC công nhận quyền tự do tín ngưỡng. Thế mà vào ngày 18/6/2004, Ủy Ban Thường Vụ của quốc hội VC đă thông qua pháp lệnh về tự do tôn giáo nhằm hạn chế tới mức tối đa quyền tự do này. Pháp lệnh nói đây có hệ cấp pháp lư thấp hơn một đạo luật v́ do Ủy Ban Thường Vụ thông qua chớ không do quốc hội thảo luận và biểu quyết. Thế mà nó đi ngược lại văn kiện tối cao trong hệ cấp pháp lư là hiến pháp. Vậy “các văn bản pháp quy có liên quan đến người VN ở nước ngoài”, nhằm chiêu dụ, ve văn “người VN ở nước ngoài”, sẽ có giá trị như thế nào? Chắc chắn các “văn bản” ấy sẽ bị ném vào sọt rác khi nào VC muốn. B. Cảnh Giác của Cộng Đồng Người Tị Nạn CS
Xin nhắc lại
bài “Con Quạ với Con Chồn” (Le Corbeau et le
Renard) của Jean de La Fontaine, một nhà ngụ ngôn lừng danh
của nước Pháp vào thế kỷ thứ XVII: VC đă quyết tâm thôn tính Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn CS bằng NQ36. Họ đă chuẩn bị khá chu đáo sự thi hành Nghị quyết. Kèm theo NQ36 là quyết định số 110/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng VC đề ra “Chương tŕnh hành động” với 10 công tác phải làm để “thực hiện thắng lợi” NQ36. Ngày 21/7/2004, một hội nghị do Bộ chính trị VC triệu tập tại Hà Nội gồm “Ban cán sự đảng Bộ ngoại giao, Ban cán sự đảngngoài nước, Ủy ban về người Việt ở nước ngoài, Mặt trận Tổ quốc, Ban tư tưởng văn hóa trung ương” để học tập và phổ biến NQ36 đến “cán bộ chủ chốt các bộ, ban, ngành ở trung ương và 64 tỉnh thành trong cả nước”. Trong hội nghị, Phạm Thế Duyệt, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc của VC, đă công khai hóa “Hội thân nhân Việt kiều”, một tổ chức đă được thành lập và hoạt động từ năm 1994. Trong hội nghị này, VC đă hạ lịnh cho toàn “đảng”, cho cả guồng máy chính quyền của họ “thực hiện thắng lợi NQ36”. Với những công tác chuẩn bị ồn ào nói trên, VC có ảo tưởng đồng bào hải ngoại
- Sẽ tin những
lời vuốt ve bịp bợm của họ, để tiếp tay với họ “thi hành thắng lợi NQ36”.
Kỳ vọng càng
cao, thất vọng càng lớn. VC đánh giá quá thấp trí nhớ và sự hiểu
biết của đồng bào hải ngoại về bản chất lừa bịp cố hữu của họ. Những
ǵ họ kỳ vọng nơi đồng bào sẽ không bao giờ xảy ra! Nói như thế
không phải người viết khinh địch và quên lời nói của người xưa “chưa
thắng đă kiêu, chưa thua đă rối”. Chúng ta “không kiêu”, chúng ta
“không rối”. Chúng ta chỉ có một quyết tâm: vô hiệu hóa NQ36 bằng
biện pháp tẩy chay những ǵ liên quan đến VC để họ không c̣n
phương tiện cứu “đảng”, cứu chế độ, một chế độ phi nhân, tàn độc
chưa từng thấy trong lịch sử nước nhà, một chế độ làm kinh tài bằng
cách xuất cảng trẻ thơ làm gái măi dâm và xuất cảng công nhân làm nô
lệ ngoại bang. Quyết tâm đó đă tỏ ra khá hữu hiệu qua lời ghi nhận
của tà quyền VC. Thật vậy, theo “Cục Đầu Tư Nước Ngoài” của
VC, số tiền “Việt kiều” mang về đầu tư, sau gần hai năm NQ36 được
ban hành, không tới 300 triệu mỹ kim, một số tiền “chưa tương
xứng với tiềm năng” của cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại.
Mặt khác, “Uỷ Ban Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài” của VC ghi
nhận: chỉ có độ 200 trong số khoảng 300,000 trí thức người Việt Nam
ở hải ngoại về nước “đóng góp một cách rất hạn chế”. KẾT LUẬN
Nghe mà biết
không bằng thấy mà biết, thấy mà biết không bằng ở mà biết (13).
Người đă nghe, đă thấy và đă ở trong chế độ VC trên dưới 60 năm hẳn
biết rơ bản chất lừa bịp của VC. Đó là ông Bùi Tín. Trong bài “Nghị
Quyết 36 ư? - Trật lất”, ông ta đă viết: “Họ leo lẻo:
“NQ36 tỏ rơ sự quan tâm của đảng và nhà nước với gần 3 triệu bà con
ta ở nước ngoài”. Tôi đánh giá: “Giả dối! Đạo đức giả! Trâng tráo”.
Họ uốn lưởi: “Nghị Quyết 36 sẽ khuyến khích bà con ta hướng về quê
hương và tham gia xây dựng đất nước". Tôi đánh giá: “Ảo tưởng! Đến
Tết Công-Gô”. V́ sao? V́ những người chuẩn bị cho Nghị Quyết, dự
thảo Nghị Quyết, thông qua Nghị Quyết vẫn giữ nguyên cái năo trạng
cổ lỗ: Trịch thượng, ban ơn, bố thí, làm cha mẹ dân đen. V́ sao nữa
ư? V́ những người như ông Vũ Khoan, phó thủ tướng, như ông Nguyễn
Phú B́nh, thứ trưởng ngoại giao, hai nhân vật chủ chốt viết nên bản
dự thảo Nghị Quyết này, cũng có chút ít học vấn, cũng có đi đâu đó
ra nước ngoài, có phải u mê đâu mà khi đề cập vấn đề người Việt ở
nước ngoài lại quên khuấy đi - hay cố t́nh giả bộ quên - vấn đề đầu
tiên là: Do đâu mà có gần 3 triệu người Việt rải rác khắp nơi? Phải
đi từ nguyên nhân cơ bản mới nh́n ra vấn đề và giải quyến vấn đề
chứ! Vậy nguyên nhân cơ bản ấy là ǵ? Họ có dám nh́n vào sự thật hay
không? Hay vẫn cứ giả chột, giả mù? Xin nói thẳng ra là: Hèn! Vậy
xin thưa: số đông bà con ta lớp lớp gạt nước mắt bỏ nước ra đi, trên
những tàu thuyền ọp ẹp, trước sóng to gió lớn của biển cả hung dữ,
chỉ v́ một loạt chính sách: “trả thù”, “phân biệt đối xử”, “hạ nhục
kẻ thua trận”, “cải tạo bằng nhà tù”, “diệt trừ tư sản”, “cưởng bức
đi kinh tế mới”, “xét theo lư lịch”, “hộ khẩu thành phố không cấp
cho bọn ngụy”… Để đến mức người dân có lương tâm và tự trọng cảm
thấy bơ vơ lạc lơng trên chính quê hương ḿnh; đến độ cái cột đèn có
chân cũng phải ra đi”- Bùi Tín.
MX Lê
Công Truyền
Cước chú
|
|
|